Phan Nhật Nam
Không gì bực mình hơn là phải nghe người ta nói thiệt! Vì lời nói thiệt dễ làm mích lòng nhau. Nhứt là đối với những người thường hay được nghe những lời ca tụng, tán dương và kể cả nịnh bợ không có thiệt về mình, về gia đình mình, về cộng đồng mình và luôn cả về dân tộc mình!
Nói lên sự thực với người mình —người Việt Nam— quả là một chuyện hết sức khó làm. Bởi vì từ trước tới nay hầu hết những lời nói hay bài viết của người này đề cập đến người kia, nếu không là chửi bới quá đáng, thì cũng là tán dương quá độ. Trong tiến trình tán dương quá độ, mọi ngôn từ hoa mỹ đều được vận dụng để ca ngợi đối tượng, mà không có phần nào nghiêm chỉnh phê phán để cho đối tượng này thấy được những khuyết điểm cần phải sửa chữa. "Mặc áo thụng vái nhau,"đó là lối mòn mà người mình —đặc biệt là các văn nghệ sĩ— vẫn ưa dùng để công kênh nhau trên mọi phương tiện truyền thông có được, bất chấp lương tri và lẽ công bằng. Cứ hết ca ngợi lẫn nhau đến ca ngợi dân tộc mình riết như vậy rồi thành thói quen. Khi có người nào đó dám mon men vạch ra những khuyết điểm hay thói hư, tật xấu của người Việt Nam thì nhiều người sẽ lại nổi giận lên như thể là danh dự của họ đã bị xúc phạm nặng nề rồi. Không, đó chỉ là cái tự ái dân tộc hảo huyền mà thôi, thưa quý vị.
Sau khi đã nói vậy, bài viết sau đây không nhằm chê bai hay chửi bới ai hết, mà chỉ nhằm nói thiệt, tức nói lên sự thật, về những nguyên do tại sao mà một dân tộc vốn ưa hãnh diện về truyền thống lịch sử, văn hoá và đạo đức của mình như dân tộc Việt Nam mà bây giờ lại trở nên một trong những dân tộc trầm luân nhứt thế giới nếu xét về những mặt như nghèo đói, không luật pháp, tàn ác với nhau, tự cho mình là giỏi, hay tham lam, chuyên phản phúc, luôn chê bai và chửi bới những ai không phải là chính mình, coi chuyện ăn hối lộ là quyền đương nhiên của mình, lúc nào cũng chỉ coi trọng đồng tiền và vật chất...
Còn một điều này nữa. Người viết không muốn bị những người trừ trước tới nay chỉ thích được nghe người khác tán dương hay nịnh bợ (mà nay đành thất vọng vì không được tiếp tục nghe những lời tán dương, nịnh bợ đó) chụp mũ là cộng sản (như 90% những trường hợp cho thấy), là phản quốc, hoặc là coi thường dân tộc mình... Vì vậy, người viết đành ra tay trước để phòng thủ, tạm thời tự vỗ ngực nhận mình là một trong những người chống Cộng kiên cường nhứt thế giới, người có tình yêu nước Việt Nam nồng nàn nhứt, và người duy nhứt trong cộng đồng nhỏ bé cuả mình lúc nào cũng chỉ biết đặt quyền lợi của tổ quốc và dân tộc lên trên hết.
Dân tộc Việt Nam, ngoài những điểm ưu việt ghê gớm mà các dân tộc khác trên thế giới không có, còn có những khuyết điểm, hay nói huỵch tẹt ra là những thói xấu, mà các dân tộc kia không thể nào sánh nổi cho dù họ có cố gắng học hỏi hay bắt chước chúng ta cách mấy đi nữa. Những thói xấu này giải thích tại sao người Việt Nam mà chúng ta vẫn luôn luôn tự hào là thông minh xuất chúng đến như vậy mà bây giờ lại trở nên một trong những dân tộc lụn bại, trầm luân nhứt thế giới, tính cho đến cuối thiên niên kỷ này.(1) Những thói xấu của người mình thiệt ra khá nhiều, nhiều hơn mức bình thường. Người viết bài này chỉ gạn lọc và trình bày một số tính tiêu biểu đã gián tiếp hay trực tiếp đóng góp vào tình trạng đất nước Việt Nam ngày càng xơ xác, tiêu điều, các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại ngày càng tiếp tục chia rẻ, phân hoá tưởng như không bao giờ hàn gắn được. Các thói xấu đó là: không tôn trọng sự thực và lẽ phải, khoe khoang và kiêu ngạo, cố chấp, độc tôn, kỳ thị, tàn ác, thiếu cao thượng và ưa chơi gác, phe đảng, thiển cận, ganh ghét, thích làm vua làm chúa, không công tâm, không tôn trọng luật lệ, cướp công của người khác, ưa nịnh bợ, tâng bốc, thích ăn hối lộ, tham lam, không tôn trọng nguyên tắc và giờ giấc, không tuân giữ các cam kết... Những dẫn chứng về xã hội và lịch sử Việt Nam —cả ở trong lẫn ở ngoài nước— có thể giúp soi rọi vào cội nguồn và những ngóc ngách của các thói xấu nêu trên.
Không tôn trọng sự thực và lẽ phải: Lịch sử dân tộc Việt Nam do người mình viết có nhiều điểm mơ hồ và không đi sát sự thực, như những chi tiết liên hệ tới nguồn gốc dân tộc, về các vị nữ anh hùng, về công cuộc mở mang bờ cõi, về các lý do đằng sau việc cấm đạo Cơ Ðốc, về các triều đại nhà Nguyễn Tây Sơn và nhà Nguyễn, và gần đây nhứt là về các chiến thắng của Vua Quang Trung trước quân nhà Thanh xâm lược. (2) Những lời đồn đại về Ngô Triều sau ngày 1-11-1963 cũng như những tập hồi ký của các cựu Tướng Ðỗ Mậu, Trần Văn Ðôn, Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Ðính... (3) cũng là biểu hiện của tính không tôn trọng sự thực của người mình. Còn lịch sử Việt Nam do Ðảng Cộng Sản Việt Nam viết nên thì lại không hề có lấy một phần mười của tính trung thực cần có trong phương pháp sử học, mà chỉ nhằm phục vụ mục đích tuyên truyền và tự tôn vinh của người Cộng Sản Việt Nam. Gần như người Việt nào ở hải ngoại cũng chửi bới Cộng sản, nhưng hễ đã được về thăm quê hương thì một số lại khen lấy, khen đễ Cộng sản, cốt sao cho được việc của mình và gia đình mình chớ không hề muốn nói lên sự thực chút nào. (4) Khoe khoang và kiêu ngạo: Ðào Duy Anh, khi viết về dân tộc Việt Nam, đặc biệt chú ý tới tính hay khoe khoang, trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh của người mình. Trần Trọng Kim cũng cho rằng người Việt Nam hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng. (5) ở nước ngoài, chúng ta vẫn thường nghe nói tới sự thông minh và tài giỏi của người Việt Nam, tiêu biểu là số lượng học sinh và sinh viên học giỏi, đậu cao tại các học đường Âu, Mỹ, rồi tự lấy làm hí hửng là dân tộc mình number one. Bình tĩnh mà xét, điều này cũng không có gì lạ lắm, vì có cả trăm triệu người ở Châu Âu, Châu Mỹ đậu những bằng cấp mà người mình đã, đang và sẽ đậu, nhưng họ nào có xuýt xoa hay khua chiêng, gỏ mõ gì đâu, mà chỉ im lặng làm việc và thành công sau khi đã lấy được những bằngcấp kia. (6) Ðó là chưa kể tới câu hỏi mà ai cũng nhắc tới là Một người Việt Nam thì vậy, còn hai, ba hay nhiều người Việt Nam nữa đứng chung với nhau thì sao? Còn về tính kiêu ngạo thì có lẽ không ai kiêu ngạo hơn dân tộc mình, kể cả dân Thiên Hoàng Nhựt Bản và dân Con Trời Trung Quốc. Theo lời Cộng Sản Việt Nam (và ngay cả một số những người Quốc gia bị thua trận trước đây), thì Việt Nam quả là cái thế anh hùng khi một mình đánh thắng hết mọi đế quốc sừng sỏ từ Trung Hoa và Mông Cổ tới Pháp, tới Nhựt rồi tới Mỹ. Người Cộng sản còn phô trương rằng giới lãnh đạo của họ là những bộ óc ưu việt, những đỉnh cao trí tuệ cuả loài người tiến bộ trên thế giới đã xuất thần mà đề xướng ra hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Ðế quốc Mỹ rồi lại sáng suốt "dắt giống nòi" vào con đường xã hội chủ nghĩa. (7) Nên nhớ rằng kiêu ngạo là tính mà Ông Trời ghét nhứt, và cũng chính vì tật xấu này mà loài người hay bị Trời phạt nhiều nhứt. Các thành Sodom và Gomorrha (như được kể lại trong Thánh Kinh Cơ Ðốc Giáo) đều đã bị lửa Trời tiêu huỷ chỉ vì dân chúng ở đó quá kiêu ngạo đến nỗi lo ăn chơi sa đoạ và dâm loạn, bất chấp những điều răn của Thượng Ðế. Cứ xem dân tộc mình hiện đang bị nghèo đói, trầm luân, rên siết đêm ngày dưới ách Cộng sản thì biết ngay.
1. Cố chấp và ngoan cố: Không ai cố chấp và ngoan cố như dân ta. Cái gì của mình cũng là nhứt, còn người ta là hạng bét. Hễ đã tin là mình đúng rồi thì cứ bắt người khác phải theo cho bằng được; còn nếu sai thì vẫn cứ cố cãi cho tới chết chớ không chịu nhận là mình sai. Vua Tự Ðức không tin lời Nguyễn Trường Tộ nói là dân mình bị lạc hậu so với Tây phương, tiếp tục nghe theo Tàu gọi các nước Âu Mỹ là Tây di, rồi khư khư ôm lấy chính sách bế quan, toả cảng, để rồi cuối cùng dân tộc ta phải làm nô lệ cho thực dân Pháp. Hồi thập niên 1950-60, Hồ Chí Minh và phe đảng ông, vì tin rằng muốn cho đất nước giàu mạnh thì cả hai miền Nam, Bắc chỉ có cách là đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà thôi nên đã nhứt quyết dùng võ lực buộc chính phủ và nhân dân Miền Nam Việt Nam phải từ bỏ con đường tự do dân chủ. Còn chính quyền Ngô Ðình Diệm hồi đó thì vẫn khăng khăng cho rằng các chính đảng khác, kể cả Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Ðại Việt, không có khả năng chống Cộng như mình. Phe quân nhân sau đảo chánh 1-11-1963, vì quá tự tin ở khả năng mình, đã không để cho các nhà lãnh đạo dân sự có cơ hội cầm quyền tại Miền Nam Việt Nam, cho dù họ có tài đức đến đâu. Cộng sản Việt Nam thì cho giáo điều của họ là hay nhứt, không có lý thuyết chính trị nào hay hơn, kể cả bọn xét lại Liên Sô và bọn hiện đại hoá Trung Quốc. Ngay cả sau khi Liên Sô, vị thánh tổ của Cộng sản thế giới và đại sư báọ của Cộng sản Việt Nam, đã sụp đổ cùng với khối Cộng sản Ðông Âu hồi 1991, Cộng sản Việt Nam, dù biết rằng mình đã hoàn toàn sai trái, nhưng vẫn ngoan cố không chịu nhìn nhận điều này để sửa đổi chế độ cho dân tộc được nhờ. Một số đảng viên đã ly khai của họ -- như "hồi chánh viên" Bùi Tín chẳng hạn -- vẫn cứ nhứt định cho rằng chỉ có giới lãnh đạo tại Hà Nội, chớ không phải là chủ nghĩa Cộng sản, đã sai lầm. Các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, tiêu biểu là tại Nam California, không ai nhịn ai, mạnh ai nấy xưng hùng, xưng bá, làm cho cộng đồng nát bét, chẳng qua cũng chỉ là vì tính cố chấp mà thôi.
2. Ðộc tôn: Người mình, nhứt là các nhà lãnh đạo, thường có tính ưa độc tôn, tức là chỉ muốn độc quyền làm lãnh tụ hay chỉ muốn lịch sử ghi nhận rằng không có ai ngoài họ có thể trị nước an dân. (8) Hồ Chí Minh vẫn thường nói với đám con nít: "Xưa các Vua Hùng có công dựng nước, nay Bác cháu ta có công giữ nước." (ý của họ Hồ là chính ông ta, chớ không phải là ai khác, mới là kẻ có công giữ nước.) (9) Chính vì cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ muốn thế giới coi ông là người anh hùng duy nhứt có khả năng giữ vững được Miền Nam Việt Nam khỏi bị Cộng sản nuốt sống nên ông đã cố tình làm cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải tan rã (cho thiệt đúng với câu après moi le déluge, nghĩa là nếu tao mà xuống ngôi rồi thì tụi bây chỉ còn có nước đắm chìm trong bể khổ), (10) rồi lại ráng canh cho tới giờ thứ 25 mới giao quyền lại cho cựu Tướng Dương Văn Minh để cho ông này, vốn cũng không có tài kinh bang tế thế gì mấy, chỉ còn kịp đầu hàng Cộng sản mà thôi. (11) Trong các cộng đồng người Việt hải ngoại cũng vậy, phàm người không làm được việc gì để phục vụ đồng hương thì cũng chẳng thích kẻ khác làm được việc cho cộng đồng để nổi bật hơn mình. Thái độ này đã và đang là trở lực chính ngăn chặn Việt Nam tiến lên bắt kịp với trào lưu tiến bộ hiện nay của thế giới. Người Cộng Sản trong nước, dù biết chắc là họ thua tài, thấp trí và bất lực, vẫn không chịu chấp nhận một thể chế dân chủ đa nguyên để cho người Quốc gia có cơ hội đóng góp tài năng xây dựng đất nước.
3. Kỳ thị: Người Việt hải ngoại, nhứt là tại Mỹ, vẫn hay cười chê người da trắng bản xứ là kỳ thị chủng tộc này nọ. Nhưng hãy suy gẫm kỹ mà xem thử người mình có mắc bệnh kỳ thị hay không, và bệnh đó so với người Mỹ thì nặng hay nhẹ hơn. Người viết bài này nhớ hồi nhỏ, lúc còn đi học, vẫn được mấy anh lớn trong xóm dạy cho một bài hát châm chọc người Hoa kiều -thường được gọi là "các chú" di cư sang buôn bán làm ăn tại Việt Nam. Bài hát có câu: Si-noa là giống bên Tàu, đẻ ra thằng Chệt ăn toàn... trâu! Ðối với dân tộc thiểu số miền núi (như Rhadé, Tày, Mạ, Mán...), người mình không ngần ngại gọi họ là "mọi," với ý nghĩ rằng họ là những giống người kém văn minh hơn ta đây. Dĩ nhiên là đối với hai ông bạn láng giềng Lào và Căm-Bốt thì người Việt Nam lúc nào cũng vẫn tự coi là mình hơn người ta một bậc, bất kể về phương diện nào. Lại nhớ ngày xưa khi còn lính Mỹ tại Việt Nam, những người đi làm sở Mỹ hay phụ nữ kết hôn với binh lính và sĩ quan Mỹ vẫn còn bị coi là làm chuyện kém vinh dự hay thiếu đạo đức (vì ham tiền mới làm), và con lai —dù lai Pháp hay lai Mỹ— vẫn bị xã hội mình coi rẻ, nếu không bảo là khinh khi, gọi là "đồ lấy Tây," "đồ lấy Mỹ." (Chả bù với thời nay, có chút dính dáng về máu huyết hay hôn nhơn với người Mỹ da trắng, kế tới là Anh, Pháp, Ðức, Hà Lan, Gia Nã Ðại, ý, Ðan Mạch, Na Uy, Thuỵ Ðiển, áo, Úc... thì lại là một vinh dự lớn lao!)
4. Tàn ác, thiếu cao thượng và ưa chơi gác: Thật ra, người Việt Nam mình không phải là một chủng tộc có bản tính tàn ác. Trong các vua đời Nhà Lý và Nhà Trần, nhờ ảnh hưởng tốt đẹp của Phật Giáo, nhiều vị đã hết sức thương dân và còn biết đem lòng từ bi, hỉ xả cuả nhà Phật ra để dạy dân biết ăn ở cho có đạo đức, nhân từ. Về mặt tàn ác của người mình, sử sách còn ghi lại cách đối xử tàn bạo cuả binh lính Nhà Nguyễn dưới quyền Tướng Nguyễn Huỳnh Ðức lúc đang chinh phạt Cao Miên (đời Vua Thiệu Trị). Cung cách Cộng sản Việt Nam đối xử với tù binh Mỹ trong tay họ phải nói là tàn ác và tồi tệ chẳng thua chi quân phiệt Nhựt hồi Thế Chiến II nữa. (12) Người Mỹ, tuy bị coi là ham mê tình dục mà ít chú trọng tới danh dự (kiểu Clinton) và chỉ nghĩ đến cá nhân mình, nhưng lại giàu lòng thương hại kẻ yếu kém hơn họ. Chẳng hạn, người Mỹ, lúc đã trở nên giàu có, thường dùng tiền bạc dư thừa để làm việc từ thiện, dù có khi chỉ để mua danh. Và họ ít khi muốn đánh kẻ đã ngã ngựa, cho dù kẻ đó là Ðức hay Nhựt. Việt Nam mình thì khác: Kẻ thắng sẽ đánh, giết người thua cho tới cùng. Các ví dụ trong lịch sử gồm có chuyện Trần Thủ Ðộ giết hại tôn thất nhà Lý, chuyện Vua Gia Long cho đào mả Vua Quang Trung để lấy đầu lâu đái vào và xử tử nữ Tướng Bùi Thị Xuân cuả Tây Sơn một cách tàn nhẫn, chuyện các vua đời Hậu Lê và Nguyễn giết hại công thần... Quân viễn chinh Việt Nam tại Lào và Căm-Bốt luôn luôn chơi gác đồng minh của mình, dù phe taọ là Quốc gia hay Cộng sản. Hiện đại nhứt vẫn là chuyện Cộng Sản Bắc Việt chơi gác Mỹ tại bàn Hội nghị Ba-lê, với lá bài tẫy là tù binh Mỹ trong tay họ. (Có điều trớ trêu là người Mỹ chỉ ngu đoản kỳ, trong khi Cộng sản Bắc Việt lại ngu trường kỳ!)
5. Phe đảng: Không dân tộc nào lại có tính phe đảng hơn người mình. Phe đảng đây có nghĩa là ngoài mình ra, mình chỉ lo cho vợ con mình, bà con mình hay bè bạn mình là hết, còn đất nước thì cứ kệ mẹ nó, muốn ra sao thì ra. Ðiều này đúng cho cả phe Quốc gia lẫn phe Cộng sản, cho nên đất nước mình mới mau chóng tàn mạt như thế này. (13) John Paul Vann, Cố vấn Trưởng Vùng II Chiến thuật hồi thập niên 1970, đã ngỏ ý xa gần rằng "người Việt Nam là những kẻ yêu thương chan chứa nhứt (thế giới)" (the Vietnamese are the greatest lovers), ý nói người mình chỉ biết yêu thương, lo lắng cho sự an nguy của quyến thuộc, thân bằng mà quên đi vận mệnh chung của đất nước. Ngay cả lúc cần phải lui quân (cỡ Dunkerque), sĩ quan và binh lính ta vẫn đèo bòng vợ con làm cho cuộc triệt thoái thêm phần vướng víu, chậm chạp và dĩ nhiên là nhiều thương vong. Hồi còn Việt Nam Cộng Hoà, cái triết lý một người làm quan, cả họ được nhờ là triết lý phổ biến nhứt và được nhiều người theo nhứt. Ai cũng chê Tổng Thống Diệm là gia đình trị, nhưng nếu chính quyền rơi vào tay một gia đình khác thì cũng thế, có điều là gia đình này có độc tài và tham nhũng hơn gia đình kia hay không mà thôi. Thời quân nhân cầm quyền ở Miền Nam Việt Nam thì chỉ có ai trong đảng ka-ki mới được trao quyền cai trị đất nước. Quân đội thì lại bị một số tướng lãnh coi như là tài sản riêng, để rồi họ cứ nhân danh tập thể Quân đội mà ban phát cấp bậc hay chức vụ cho những ai trung thành với họ. Thời Cộng sản thì khỏi nói rồi, chỉ có "Ðảng ta" là xứng đáng được ăn trên, ngồi trốc, làm giàu và cho con du học (Ðế quốc) Mỹ mà thôi! Thử hỏi một khi đã mở cửa cho dân chủ đa nguyên thì làm sao mà Cộng sản có thể thực thi chính sách phe đảng cho được?
6. Thiển cận: Ai viết sách hay giảng thuyết nơi đâu cũng khen ông cha chúng ta là nhìn xa, trông rộng. Sự thật chỉ đúng một phần nào đó mà thôi như phần chịu nhịn nhục triều cống Trung Hoa sau mỗi đợt chiến thắng quân xâm lược phương Bắc còn phần nhiều là thiển cận. Vì vậy dân tộc ta mới bỏ mất cơ hội canh tân đất nước (thời nhà Nguyễn), cơ hội hoà giải dân tộc và tái thiết đất nước thời hậu chiến (khi Cộng sản thắng năm 1975) và cơ hội lấy lại Quần đảo Hoàng Sa vốn là lãnh thổ của ta 100 phần trăm (khi Trung Cộng đang bị đánh bại trên mặt trận sáu tỉnh biên giới phía Bắc). Cứ nhìn các công trình kiến trúc nhỏ xíu của các triều đại vua, chúa Việt Nam để lại cho hậu thế thì biết: Không phải tại vua, chúa ta nghèo hay chẳng muốn vắt kiệt sức dân để phục vụ quyền lợi riêng như vua Tàu, vua Miên, vua Xiêm hay vua Lào đâu, nhưng chính là vì cái nhìn cuả người mình không thoáng, không vượt quá luỹ tre xanh đầu làng nên các công trình kiến trúc của mình thiếu vẻ bề thế, bao la và hùng tráng. (14) Cũng chỉ vì tầm nhìn không xa, không rộng nên dân chúng Miền Nam mới liên tục biểu tình đòi hoà bình với bất cứ giá nào, đòi Mỹ cút ngay, cho dù Việt Cộng đang đánh sát sàn sạt bên hông. Còn các tướng, tá trong Quân Ðội Cộng Hoà thì chỉ thích lật đổ Tổng Thống Diệm cho khuất mắt để được dịp tự lên lon cho lẹ! Và cũng chính vì cái tính thiển cận này mà người Việt hải ngoại ít quan tâm đến những cuộc đầu tư có tính cách lâu dài, như đầu tư vào chính trị (đi bầu cho đông để tạo áp lực, ra tranh các chức vụ dân cử...) hay đầu tư vào văn hoá (cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam, làm công tác bất vụ lợi...) mà chỉ thích làm sao hễ sáng bỏ tiền ra là tối phải thu lợi vào ngay, chớ không thể để ngâm vốn lâu được!
7. Ganh ghét và đố kỵ: Tại sao người Việt hải ngoại sau hơn hai thập niên sống lưu vong vẫn chỉ làm được có mỗi một việc (coi không được) là đem nộp cho Cộng Sản Việt Nam hơn một tỷ đô-la mỗi năm? Ðó lại người mình không đoàn kết (trong tình đồng bào cũng như trong sách lược chung), mà cỗi nguồn của tình trạng này vẫn là lòng ganh ghét, đố kỵ nhau từng ly, từng tí. (15) Ðối với người mình, trâu buộc ghét trâu ăn đã đành, nhưng trâu ăn này lại còn ghét cay, ghét đắng trâu ăn kia nữa mới là đáng nói! Một ví dụ điễn hình là vụ Còi hụ Long An thời Ðệ nhị Cộng Hoà ở Miền Nam Việt Nam, tức là vụ phe của Bà Thiệu tranh đua buôn lậu với phe của Bà Khiêm, đôi bên đều sử dụng các lực lượng quân đội hùng hậu, kéo còi hụ hộ tống hàng hoá um sùm trời đất. Người viết bài này trộm nghĩ phe Cộng sản bên nhà cũng chẳng khá hơn phe hải ngoại trong lãnh vực này. Cứ nhìn việc "Ðảng ta" hạ bệ ngay và không tiếc xót "đệ nhất công thần" Võ Nguyên Giáp sau trận Ðiện Biên Phủ hồi 1954, cứ nhìn những cuộc thanh trừng nội bộ liên tiếp trong "Ðảng ta" —mà Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là nạn nhân "đáng thương" nhứt— từ hồi chiếm được Miền Nam Việt Nam đến nay thì đủ biết.
8. Thích làm vua, làm chúa: Cái này thì đã rõ từ thời còn mồ ma thực dân Pháp kia, khi các quan cai trị Pháp nghiên cứu về dân tộc tính của người "An-nam" ta. Một vị Tây mũi lõ —dường như là Toàn Quyền Pierre Pasquier— đã "phán" thẳng thừng: Trong bụng mỗi một người An-nam đều có một ông quan. Câu nói này tuy hơi khắt khe nhưng cũng đã nói lên tính thích làm vua, làm chuá của người mình. Chính vì cái tính này mà người mình đâu có ai chịu phục ai. Bởi thế cho nên, nhìn quanh, nhìn quất trong cộng đồng người gốc á châu-Thái Bình Dương ở hải ngoại, chỉ có nhóm người Việt Nam mình là phải thường xuyên khổ sở vì tranh chấp và kiện tụng về quyền lãnh đạo, từ các trung tâm văn bút cho tới các ban đại diện cộng đồng. Quý vị còn lạ gì khi thấy cảnh bên Mỹ một tiểu bang hay nửa tiểu bang mà có tới hai, ba ban đại diện cộng đồng Việt Nam, trong khi đó xuất hiện hằng trăm hội đoàn, mà hầu hết các hội đoàn này chỉ có chủ tịch đứng tên trong hội đồng quản trị mà thôi. Thậm chí có người đã cả gan một mình đứng làm chủ tịch cả chục hội đoàn, vừa Việt vừa Mỹ. Mà phải như các hội đoàn này có hoạt động gì ích quốc, lợi dân cho cam! Trái lại, nó chỉ hiện diện để người cầm đầu dễ bề lợi dụng danh nghĩa cộng đồng vào những âm mưu làm kinh tế hay chính trị riêng tư của họ.
9. Không công tâm: Không công tâm tức là tư vị, mà chuyện này thì xảy ra như cơm bữa tại Việt Nam dù dưới chế độ nào đi nữa. Con ông, cháu cha (phải được ưu tiên) vẫn là phương châm của mọi thời đại. Vì không công tâm nên mới sinh ra nạn phe đảng và bè phái làm ung thối mọi cấp chính quyền trong quá khứ cũng như hiện tại, bên này hay bên kia vĩ tuyến 17 cũng vậy. Chính nhờ nổi tiếng là có công tâm nên Cụ Trần Văn Hương mới được mời làm đến Thủ Tướng và sau đó là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng điều đáng tiếc cho vận nước là số người như cụ không nhiều hơn số ngón trên một bàn tay đã cụt hết bốn ngón rồi! Bệnh không công tâm còn thể hiện qua cách viết lách, tường thuật, phê phán vụ việc và ghi chép lịch sử nữa. Ðặc biệt về cuộc Chiến Tranh Việt Nam, người Việt Nam, ở một mức độ cao hơn người Mỹ, thường thiếu công bằng khi kể lại các sự kiện xảy ra. Nếu là một cựu quân nhân Nhảy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến hay bộ binh viết về một trận đánh nào đó tại Nam Việt Nam, thành tích của đơn vị gốc cuả tác giả thường được đề cao, trong khi thành tích cuả các đơn vị bạn lại bị kín đáo dìm xuống hay có khi bị lờ đi, không đề cập gì tới cả. (16) Lối tường thuật và viết sử của Cộng sản dĩ nhiên là còn tồi tệ hơn nhiều, nghĩa là không đếm xỉa gì tới sự thực mà hoàn toàn thiên vị nhằm mục đích tuyên truyền và độc tôn phe Cộng sản. Dĩ nhiên, một lý do khác của sự thể này là người cầm bút của mình thường thiếu phương pháp sử học và không hề để ý tới nguyên tắc vô tư trong tường thuật báo chí.
10. Không tôn trọng luật lệ: Chính nhờ tinh thần thượng tôn luật pháp mà Mỹ Quốc, tuy chỉ mới lập quốc có hơn 200 năm, nay đã trở thành một siêu cường giàu mạnh nhứt thế giới. Nhưng Việt Nam ta thì coi như không mấy ai bận tâm đến chuyện phải tôn trọng luật pháp. Ðây là hậu quả tất yếu của một quốc gia phải trải qua cả nghìn năm chinh chiến, hết nội thù đến ngoại xâm, hầu như không có lúc nào được an hưởng thái bình đủ lâu để củng cố hệ thống luật pháp chung cho đất nước. Ðất nước Việt Nam tuy mang tiếng là được trung ương tập quyền từ đời Lý (thế kỷ thứ 11-13) nhưng thiệt sự triều đình chỉ nắm được quyền thu thuế và bắt lính qua trung gian một hệ thống làng xã khá vững chắc. Phép vua thua lệ làng, câu này vừa nói lên tính tự trị từ ngàn xưa cuả hệ thống làng xã Việt Nam - vì triều đình quá bận bịu chinh chiến chống ngoại xâm và nội thù — vừa nói lên sự lỏng lẻo cuả luật pháp quốc gia. Hay nói khác đi, Việt Nam chỉ thiệt sự có luật pháp quốc gia từ đầu thế kỷ 19 với Bộ Luật Gia Long, mặc dù, trên nguyên tắc, đất nước đã có luật pháp chung kể từ thời Lê Thánh Tôn (thế kỷ thứ 15) với Bộ Luật Hồng Ðức. Nói chung, ý thức tôn trọng luật pháp của người mình rất thấp. Một phần là vì khả năng truyền thông yếu kém do tình trạng nghèo nàn lạc hậu, phần khác do đầu óc sứ quân và óc địa phương, làng xã còn nặng, phần khác nữa do đời sống dân chúng hãy còn quá đơn giản, chưa có những nhu cầu phức tạp của một dân tộc văn minh cao. Khi Cộng Sản cởi đầu, cởi cổ được cả hai miền Nam Bắc thì họ liền trở về với tình trạng phân hoá sứ quân cũ, nghĩa là mỗi tỉnh đều có luật lệ riêng để áp dụng, có khi luật tỉnh (do bí thư tỉnh ủy đảng Cộng Sản hành xử) còn được đặt trên cả luật pháp quốc gia, với dụng ý để cho cán bộ tỉnh dễ bề tham nhũng và có thể tuỳ tiện ăn hối lộ mà không cần phải trình báo cho trung ương. Và rồi tình trạng vô luật pháp chỉ là một hậu quả tất nhiên của tệ nạn tham nhũng và hối lộ lan tràn, bởi vì lúc nào cũng thấy diễn ra cảnh "nén bạc đâm toạc tờ giấy." Ngày nay, những ai từng về Việt Nam du lịch đều nhìn nhận rằng Việt Nam không hề có luật lệ giao thông. Hễ đã ra đường rồi thì mạnh ai nấy chạy, mạnh xe nào nấy đi, chừng nào tai nạn xảy ra thì cứ chửi nhau inh ỏi cả lên, ai to tiếng hơn thì thắng, còn có bồi thường thì cũng chỉ là vờ vịt, qua loa mà thôi, chủ yếu là xuýt xoa xin lỗi.
Cướp công của người khác: Vì không có một hệ tư tưởng hay học thuyết dân tộc cuả riêng mình, người Việt Nam rất dễ dàng tiếp nhận những luồng tư tưởng từ bên ngoài. Việt Nam đã du nhập nào Khổng Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo, Cơ-Ðốc Giáo, chủ nghĩa tự do dân chủ Tây phương, chủ nghĩa duy vật Mác-xít Lê-nin-nít, triết học hiện sinh cùng với các trường phái nghệ thuật từ cổ điển và lãng mạn tới ấn tượng và lập thể. Người mình còn ưa lấy các học thuyết khác nhau của Trung Hoa và Ấn Ðộ xào nấu lại rồi cho đó là công trình sáng tạo của mình, gọi các công trình đó là một hình thức Việt Nho hay Việt Học. (17) Các sản phẩm kiến trúc hay âm nhạc cuả Việt Nam thiệt ra đều là những bản sao có thêm thắt cuả lối xây cất hay cách thế ca hát, nhảy múa của Trung Hoa và Chàm (Ấn Ðộ). (18) Các nhà cai trị thực dân Pháp cũng từng ghi nhận rằng dân tộc Việt Nam có tài bắt chước, mà hễ đã bắt chước thì không phải là sáng tạo mà chỉ là lấy của người làm của mình thôi. Một tỷ dụ điển hình khác cuả thói xấu này là tật "cướp công cách mạng" khi Cộng Sản tự vỗ ngực cho rằng chính họ là người duy nhứt đi tiên phong trong phong trào đánh Pháp, đuổi Nhựt. Thiệt sự thì những đảng phái quốc gia khác như Việt Nam Quốc Dân Ðảng hay Ðại Việt, hoặc các giáo phái như Cao Ðài và Hoà Hảo cũng là những thành phần có công chống Pháp, kháng Nhựt vậy. Chỉ có điều là họ không giành được chính quyền vào tay để mà tha hồ kể công với lịch sử như Cộng sản đang làm.
Ưa nịnh bợ, tâng bốc: Vì có máu kiêu ngạo thêm tính ưa làm quan (như đã kể trên), người Việt Nam thường chỉ thích được kẻ khác nịnh bợ, tâng bốc. Những lời nói thiệt, nói thẳng kiểu Nguyễn Trường Tộ hay Phan Châu Trinh dễ làm vua quan ta phật ý. Sử chép rằng Vua Khải Ðịnh thích được các quan quỳ lạy, xưng tụng đến nỗi nhà vua đã cho thiết lập cả một triều đình ngay tại Marseilles trong thời gian có Hội Chợ Kinh Tế (Ðấu Xảo) Ðông Dương thuộc Pháp năm 1925. (19) Tổng Thống Diệm cuả Miền Nam Việt Nam chỉ thích được nghe người ta suy tôn Ngô Tổng Thống. Nhưng họ Hồ và Ðảng Cộng Sản Việt Nam thì ở một mức độ cao hơn nhiều. Ðám bồi bút và văn nô cuả Hồ Chí Minh, đứng đầu là Tố Hữu (nhà thơ mà sau làm đến Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Ðổi Bạc) với các phụ tá như Xuân Diệu, Nguyễn Ðình Thi, Huỳnh Minh Siêng... lúc nào cũng sẵn sàng làm thơ, làm văn, làm nhạc, hết mình ca tụng Bác và Ðảng. Và cho dù Bác và Ðảng có thực sự xua đẩy đất nước mình xuống bờ vực thẳm, họ cũng không hề dứt lời say sưa ca ngợi: Bác đến từng nhà thăm các cụ già, cầm tay chúng con, Bác bắt nhịp bài ca kết đoàn. —Tiếng Hát Thành Phố Mang Tên Người.
Thích ăn hối lộ: Ðây là căn bệnh chung của phần lớn các quan lại và những người mà trong bụng lúc nào cũng có một ông quan. Bệnh phát triển quá mức bình thường một khi niềm tin vào kỷ cương và giềng mối cuả đất nước tan rã. Tại Miền Nam Việt Nam, sau khi chiếm được Dinh Gia Long, phe đảo chánh Tổng Thống Diệm chỉ tìm thấy chiếc giường gỗ và một giá sách trong phòng ngủ của ông. Nhưng sau khi Tổng Thống Thiệu ra đi, người ta tin rằng ông đã mang theo ra nước ngoài nếu không phải là cả tấn vàng thì cũng một số lớn tài sản tích luỹ được ố-kể cả các chương mục ngân hàng tại Thuỵ Sĩ— sau 10 năm cầm quyền. Các tướng lãnh dưới quyền ông từ Trần Thiện Khiêm tới Cao Văn Viên và Ðặng Văn Quang cũng đều được người đời nhắc nhở tới như là những tay tham nhũng lớn của chế độ. Các vị này vẫn thường coi chuyện ăn hối lộ và tham nhũng như là quyền đương nhiên của giới lãnh đạo, nhứt là trong lúc đất nước đang có chiến tranh, bản thân họ thì phải vào sanh ra tử. Tỷ dụ như Tướng Ðỗ Cao Trí, một vị tướng rất tài giỏi (cỡ Patton) nhưng không sạch của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong một phút cao hứng, từng nói với báo chí ngoại quốc rằng ông vừa đánh giặc vừa làm giàu, (ý nói ông có quyền tham nhũng và buôn lậu qua vùng tam biên). Nhưng than ôi! Tham nhũng cỡ đó thì đâu có thấm béo gì nếu so với các quan chức Cộng sản hiện đang toàn quyền cai trị 75 triệu dân Việt Nam (và một số Việt kiều yêu nước ở hải ngoại)! Trên thực tế, tình trạng tham nhũng và hối lộ ở Miền Nam, phát sinh từ chiến tranh chống Cộng, đã gia tăng với một nhịp độ khủng khiếp sau khi Sàigòn rơi vào tay Cộng sản. Và tình trạng này đã lây lan mãnh liệt, làm ung thối luôn cả chế độ Cộng sản Miền Bắc vốn bị kìm hãm trong kỷ luật sắt của một nước độc tài, đảng trị (đang dốc hết mọi tài nguyên vào cuộc chiến tranh xâm lược nước khác) và quá nghèo nàn, không biết lấy gì để tham nhũng cho ra trò. (20) Dân chúng Miền Nam Việt Nam vẫn cho rằng ngày xưa vì chỉ có các ông lớn ăn —mà phần lớn là ăn tiền của Mỹ cho— nên dân còn đỡ đỡ một chút. Nay dưới trào Cộng sản thì mạnh lớn, lớn ăn, mạnh nhỏ, nhỏ ăn (mà lại chỉ ăn vào tiền mồ hôi nước mắt cuả dân chúng chớ làm gì có viện trợ của Liên Sô hay Trung Quốc đổ xuống dồi dào như hồi Mỹ chưa phụ bạc Miền Nam Việt Nam) nên đất nước ta mới xác xơ đến vậy. May mà có Việt kiều hải ngoại thương tình mỗi năm chính thức bôm vào trong nước khoảng 1 tỷ rưỡi đô-la chớ không thì dân nghèo sẽ chết trước hết, rồi từ từ mới đến người giàu và cán bộ, đảng viên khệnh khạng mua vé Air France hạng tối danh dự bỏ nước ra đi sang định cư tại Thuỵ Sĩ!
Tham lam: Mặc dù lòng tham là bản tính chung Trời ban cho loài người không phân biệt chủng tộc, người Việt Nam đặc biệt tham hơn người khác vì đau khổ và thiếu thốn nhiều quá. Lòng tham này biểu hiện trong cách buôn bán lừa đảo, làm hàng giả và chặt đầu lột da, không phân biệt phải trái và không kể chi đến chuyện lưu nhân tình để ngày sau hảo tương kiến. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, người Việt gốc Hoa, tuy cũng tham lam chớ chẳng phải là không, trong buôn bán vẫn tỏ ra thiệt thà và giữ gìn chữ tín hơn là người Việt chính tông của mình. Cộng Sản, tuy tự xưng mình là vì giai cấp vô sản mà chiến đấu, lại đặc biệt bóc lột đám dân vô sản cô thế và xô đẩy con người vào chỗ tham lam vô cùng, vô tận. Cứ đi về Việt Nam du lịch một vòng thì biết liền: Bà con, họ hàng gì mà cho tiền ít thì hờn giận, nói xỏ, nói xiêng; địa phương thanh lịch gì mà qua cầu khỉ cũng phải trả tiền; khách sạn tối tân cỡ nào mà giá lại đắt hơn cả bên Mỹ; "núm ruột ngàn dặm" gì mà hễ đi thăm thú nơi đâu thì cũng bị đồng bào ruột thịt chặt tiền gấp đôi... Ai cũng ngậm ngùi khi thấy cảnh hoàng cung và các lăng tẫm tại cố đô Huế tiêu điều, hoang phế mặc dầu đây là một trong các điểm du lịch hái ra tiền nhiều nhứt nước. Ai có ngờ đâu rằng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã cấp cho nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam hằng triệu Mỹ kim để trùng tu di tích này, nhưng họ cứ để vậy, một phần vì tiền đó đã bị họ chia chác nhau ăn cả rồi, phần khác vì họ có thâm ý tạo cảnh tang thương đặng gợi lòng xúc cảm của du khách, mà chung quy cũng chỉ là để moi tiền thêm mà thôi!
Không tôn trọng nguyên tắc và giờ giấc: Người Việt Nam tỏ ra rất thích nghi thức và kiểu cách, nhưng lại không chịu tuân thủ một nguyên tắc nhứt định nào làm chuẩn cả. Từ lễ cúng ông bà ngày Tết cho tới lễ cúng thần hoàng hay lễ hỏi, lễ cưới... mỗi miền đều theo một nghi thức riêng, không ai chịu ai là chuẩn mực. Rồi cứ thế tam sao thất bổn, đến đời nay mỗi khi có lễ lạc gì thì mạnh ai nấy làm, mới nhìn thì cũng na ná như nhau, lại gần mới biết là không nơi nào hành lễ giống như nơi nào cả. Theo một bài viết của cựu Tướng Ngô Quang Trưởng, hồi tháng Ba năm 1975, các đơn vị thuộc Vùng I Chiến Thuật đã phải rút bỏ Huế chỉ vì phải tuân thủ nguyên tắc thi hành trước, khiếu nại sauọ của Quân Ðội, trong khi đó vị tổng tư lệnh là Tổng Thống Thiệu thì lại không tuân giữ nguyên tắc trước sau như một khi ban lệnh: chiều thì lệnh phải giữ Huế, sáng thì lệnh phải bỏ Huế, làm cho lòng quân rối loạn dẫn tới chuyện mất Vùng I rồi mất nước luôn. (21) Cộng Sản cũng vậy, đã có lệnh của trung ương rồi, nhưng các tỉnh ủy vẫn tuỳ tiện ra phản lệnh hoặc ra thêm lệnh khác, nhứt là lúc cần đánh thêm một đợt thuế nữa vào những nhà đầu tư ngoại quốc lớ ngớ tới làm ăn tại Việt Nam. Còn chuyện không tuân thủ giờ giấc thì ai cũng biết là người mình chẳng hề có khái niệm nào đứng đắn về thì giờ, vì thế mới có thứ giờ cao su. Cứ chịu khó đi dự một phiên họp cộng đồng hay đi ăn một đám cưới nào thì quý vị đủ biết. Giờ hành lễ trên giấy tờ là 9 giờ sáng hay 5 giờ chiều thì cứ y như rằng là phải đợi mãi đến 11 giờ trưa hay 7 giờ tối mới nói tới chuyện khai mạc được, rồi rề rà, ê a mãi tới quá ngọ hay tuất gì đó (9 giờ tối) mới thực sự đi vào trọng tâm buổi lễ. Ðiều có vẻ khó hiểu là hầu hết các quan khách Việt Nam này bình thường, khi đi làm sở Mỹ để lãnh lương, thì lại rất hiếm khi thấy có ai dám thử mạo hiểm dỡn mặt supervisor đi làm trễ giờ!
Không tuân giữ các cam kết: Thất hứa hay không tuân giữ các cam kết cũng là một trong các thói xấu mà người Việt mình mắc phải. Các chính trị gia thời chế độ Cộng Hoà ở Miền Nam ưa thất hứa vì tình trạng bầu bán lúc đó, tuy có dân chủ nhưng chưa dân chủ đúng mức, cho nên cử tri khó có dịp để trừng phạt họ bằng lá phiếu. Chính quyền Cộng sản bây giờ tại Việt Nam thì hoàn toàn không hề bận tâm đến chuyện phải giũ lời hứa với ai, vì có cử tri nào có thực quyền hạ bệ họ đâu mà họ phải ngán? Chuyện nuốt lời hứa của Cộng Sản đã nổi bật ngay sau khi họ "giải phóng" được Miền Nam và đưa hằng trăm ngàn quân nhân, viên chức, thành viên các đảng phái đối nghịch với họ đi "học tập cải tạo" từ 1 tháng tới 10 ngày. Các con số 1 tháng hay 10 ngày này sau cùng đã biến thành 5 năm, 10 năm, 15 năm hay lâu hơn nữa, bởi vì toàn thể Miền Nam Việt Nam đã bị nhà cầm quyền Hà Nội trắng trợn lường gạt ngay trong "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" (22) của cuộc "hoà hợp, hoà giải dân tộc" mà họ đã không ngừng cổ võ và cam kết để phía bên kia nhẹ dạ nghe theo mà buông súng đầu hàng cho lẹ.
Trên đây mới chỉ là 18 trong vô số những thói xấu mà người Việt ở trong cũng như ngoài nước hiện đang mắc phải. Có thể một số quý vị sẽ cảm thấy bàng hoàng vì không tin là cái dân tộc của chính mình mà lại mang nhiều khuyết điểm trong đạo đức làm người đến như vậy. Ðể quý vị có thêm cơ sở, người viết xin đưa ra một số nguyên do đã đưa đẩy con người Việt Nam, bằng máu và thịt, ở trong cũng như ngoài nước, đến cuộc khủng hoảng đạo đức và xã hội như hiện nay: Vì nội chiến và ngoại xâm liên miên trong suốt chiều dài của lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn luôn phải đặt mình trong tình trạng nghi ngờ, giận dữ và thù hằn. Cái đạo đức của một dân tộc hiếu hoà như bất cứ dân tộc nhỏ bé nào đó trên một hải đảo Thái Bình Dương nào đó thiệt khó có cơ hội phát triển trong dân tộc mình. Ðiều này cũng tương tự như hoàn cảnh cuả một đứa bé phải sống trong bối cảnh một gia đình đầy những sự lạm dụng (abuse) và bạo lực (violence). Do lâm trận hoài trong chiến tranh, người Việt Nam có thể là những chiến sĩ tài giỏi nhứt thế giới, nhưng đồng thời cũng có thể là những con người ít thuần tánh nhứt và dữ dằn nhứt. Cứ xem cung cách quân ta hành xử với người Chàm trước đây hay người Miên sau này (mà sử sách còn ghi lại) thì đủ biết. Ðiều này cũng có thể giải thích phần nào sự tàn ác mà Cộng sản vẫn thường dành cho các tù binh trong tay họ, cho dẫu đó là người (Miền Nam) đồng chủng tộc với họ hay người Mỹ dị chủng, mũi lỏ, mắt xanh.
a. Chiến tranh triền miên và tiêu hao, cộng thêm với những năm tháng bị xích xiềng nô lệ vừa làm cho người Việt Nam bị phân hoá (dân Bắc kỳ, dân Trung kỳ, dân Nam kỳ; Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo, Bình Ðịnh so đo, Thừa Thiên đớp hết...) vừa làm cho quyền lực của chính quyền trung ương khó tới được các địa phương và tạo ra tình trạng phép vua thua lệ làng như đã nói, một tình trạng thiệt chẳng hay ho gì nếu ta xét về mặt quyền lợi quốc gia, vì nó đẻ ra tệ nạn sứ quân (thời tiền Ðinh) và tỉnh uỷ (thời Cộng Sản). Ðiều này cũng giải thích tại sao dân tộc Việt Nam là một trong các dân tộc ít được chính quyền (do họ bầu lên hoặc không) chăm lo, phục vụ nhứt trong lịch sử nhân loại. Mối quan hệ dễ thấy nhứt giữa nhà nước và nhân dân ở Việt Nam là bên này chỉ chăm chú bắt bên kia phải đóng thuế và đi lính cho mình, chớ bên này chẳng hề phải lo lắng, phục vụ cho bên kia như quan hệ giữa chính quyền và dân chúng tại các nước khác trên thế giới mà người Việt hải ngoại đã may mắn có dịp nhìn thấy và học hỏi.
b. Chiến tranh và "đổi đời" liên tiếp cũng tạo nên trong tâm lý người Việt Nam những điều thái quá không hay khác như không cha không chúa, hoài nghi, lo lắng, tích luỹ, dễ bạo động, không khoan nhượng và tha thứ, nhẫn tâm, chai đá, sống cuồng sống vội, vá víu, cục bộ, tuỳ tiện, bội bạc, tham lam, hỗn quân hỗn quan, vô luật pháp, vô đạo đức... Ðọc lại lịch sử đất nước, các vua, chuá ta một khi đã chiến thắng kẻ khác thường không mấy khi hành xử cho cao thượng mà chỉ lo trả thù, đôi khi khá hèn hạ. Họ cứ làm như là không hề biết tới cái đạo lý của các hiệp sĩ từ Ðông sang Tây là ôkhông đánh kẻ ngã ngựa. Ðiều này giải thích tại sao Cộng Sản Việt Nam đã công khai hành hạ và ngấm ngầm giết hại hằng trăm ngàn tù nhân chính trị Việt Nam Cộng Hoà qua chính sách giả nhân giả nghĩa "học tập cải tạo" mà họ luôn mồm huênh hoang là "khoan hồng nhân đạo" (nhứt thế giới!) Quý vị hẳn cũng thừa biết, về phiá dân tộc Mỹ, với chỉ có 200 năm văn hiến, kẻ thắng (phe Miền Bắc) đã đối xử ra sao với người bại (phe Miền Nam) sau cuộc Nội Chiến 1861-1865.
c. Xét riêng về Miền Nam Việt Nam, nền đạo lý dân tộc cũng đã suy sụp theo thời gian và tuỳ vận nước nổi trôi. Thời Ðệ Nhứt Cộng Hoà, chính quyền của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, tuy bị người đời (và nhứt là người Mỹ) gán cho là gia đình trị và đàn áp tôn giáo, vẫn có cái thanh bình, an lạc và kỷ cương của nó mà suốt quãng đời còn lại sau này dân chúng Miền Nam Việt Nam không còn tìm thấy đâu nữa. Thời Ðảo Chánh và Tướng Lãnh cầm quyền, đạo đức bắt đầu đi xuống và hỗn loạn đã thấy ló mầm với hơn nưả triệu binh lính Mỹ tràn vào các thành thị và thôn làng Việt Nam, (cho dẫu với sứ mạng cứu viện đồng minh). Thời Ðệ Nhị Cộng Hoà, khi mãnh lực cuả đồng đô-la Mỹ bắt đầu lấn áp nền luân lý khắc kỷ á Ðông —vẫn còn đâu đó ở Nam Việt Nam sau cơn hỗn quân, hỗn quan— các tệ nạn như tham tài bội nghĩa, giàu bỏ bạn, sang bỏ vợ, vật giá leo thang, bợ đít quan thầy, đĩ điếm, ăn cắp (đồ Mỹ trước, đồ bạn sau rồi tới đồ nhà), ăn chơi đua đòi, sống thác loạn... bắt đầu hoành hành, gây đổ vỡ cho gia đình và làm rạn nứt giềng mối quốc gia. Với cường độ tham nhũng gia tăng theo đà chiến tranh tàn khốc cộng với nạn khủng hoảng kinh tế triền miên vì tiền viện trợ Mỹ, khi trồi, khi sụt (thời Tổng Ngọc, thời Tiến sĩ Hảo, thời thuế trị giá gia tăng, thời thuế kiệm ước...), luật pháp quốc gia và đạo đức dân tộc coi như tụt giốc kinh hoàng. Nhưng cũng chưa đến nỗi, vì vẫn còn có những gương sáng xa xa và lẻ loi như một Thủ Tướng Trần Văn Hương liêm khiết, một nhà văn hoá Mai Thọ Truyền tâm huyết cộng với nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng là bốn tướng sạch (và giỏi nữa) trong Quân Ðội. Cho đến đời Cộng Sản thống trị thì vũ trụ mới thiệt sự sụp đổ hoàn toàn trên đầu dân chúng Miền Nam Việt Nam.
Ðể giải thích cho sự băng hoại và tan rã hoàn toàn cuả xã hội Việt Nam hiện nay dưới ách thống trị mê muội và điên cuồng của Cộng sản, chỉ cần xét tới các nguyên do sau:
Người bình dân Việt Nam, vốn không phải là những triết gia có chiều sâu và những tín đồ có đức tin vững vàng, dễ có khuynh hướng tin rằng Ông Trời không có thiệt hoặc không có mắt, vì làm lành như Việt Nam Cộng Hoà lại bị Thế Giới Tự Do và người bạn Ðồng minh Mỹ rủa sả và bỏ rơi, trong khi làm ác như Cộng Sản vẫn không hề bị trừng phạt mà lại còn được vinh thân phì da, thăng quan tiến chức, giàu có bốn biển, năm thê bảy thiếp, kẻ hầu người hạ, tiền hô hậu ủng, tiền rừng bạc biển, ăn trên ngồi trốc, miệng hét ra lửa, tay chân nắm quyền, Việt kiều [vừa yêu nước vừa] sợ sệt, tiền gởi Thụy Sĩ, con học Huê Kỳ... Hễ Thượng Ðế (Ông Trời) đã chết thì con người được phép làm mọi sự mà không sợ bị ai xét đoán, trừng phạt. (23) Người Việt Nam ngày nay được tự do làm mọi điều thất đức và đoản hậu vì, qua cuộc đổi đời vừa qua, lúc người trung mắc nạn chẳng hề có tiên xuống phò gì cả. (24) Hơn nữa, chủ trương cuả Cộng Sản là vô thần và bách hại tôn giáo, nhưng, cho tới nay, chưa có vị thần thánh nào (mà các tôn giáo vẫn cho là linh thiêng lắm) đủ quyền năng để ra tay trừng phạt (bẻ cổ...) họ cho dân chúng mở mắt ra. Sự thực thì chỉ có tôn giáo mới có thể cung ứng một thứ luật pháp tối thượng và vĩnh cửu để chăn giữ người đời làm lành, lánh dữ, cũng như chỉ có sự hiện hữu cuả một Ðấng Chí Tôn mới củng cố được niềm tin cuả nhân loại về tội ác và hình phạt và về ngày phán xét cuối cùng. (25) Cứ xem cái gương của nước Mỹ: May mà tôn giáo (mà đại diện là các nhà thờ) bên này vẫn còn mạnh chớ nếu không thì luân thường đạo lý của dân Mỹ ngày nay đã đi đong rồi (mặc dù hiện nay tiền bạc và tình dục đang ở thế thượng phong, trên chưn đạo đức).
Tâm lý tuyệt vọng đã xô đẩy dân tộc Việt Nam tới chỗ ngày càng xa rời đạo lý và tiến gần đến tội ác. Thông thường, nếu một người có chút hy vọng vào cuộc sống thì người đó, dẫu sao, vẫn e dè hay miễn cưỡng khi phải phạm tội, vì họ vẫn còn hy vọng vào sự thưởng phạt trong đời. Ngược lại, người tuyệt vọng có mọi lý do để biện minh cho những hành động vô luân, ác đức của mình, bởi vì, theo họ, trách nhiệm về mọi tội ác thuộc về kẻ khác, nhứt là những kẻ đã làm cho đời hợ trở nên tuyệt vọng, mà trong trường hợp này là những lãnh tụ Cộng sản bất tài và vô đạo đức đang thống trị đất nước. Phần lớn dân chúng Việt Nam hiện nay đều mang tâm lý tuyệt vọng, không hề tin tưởng gì vào tương lai đất nước hay vào những mỹ từ như tổ quốc, dân tộc, danh dự, trách nhiệm... mà mạnh ai nấy tìm cách đưa gia đình, con cái mau mau chạy ra nước ngoài (nhứt là sang Mỹ, dĩ nhiên rồi!) qua ngả chữa bệnh, du học, hay theo các diện hôn phu, hôn thê, hôn phối... Và phần lớn số người còn ở lại Việt Nam đều là những kẻ, hoặc không có phương tiện hay cơ hội nào để bỏ nước ra đi, hoặc là vì họ đang có thừa thế lực và tiền bạc để có thể lợi dụng tình trạng tuyệt vọng của người khác mà củng cố quyền hành và làm giàu thêm.
Nền giáo dục cuả Cộng Sản Việt Nam coi như sụp đổ hoàn toàn vì tiền bạc cũng không để xây dựng trường, lớp và nâng đỡ học sinh nghèo (vốn chiếm đại đa số trong tình trạng kinh tế suy sụp hiện nay) mà tình nghĩa thầy trò cũng mất rồi. Thiệt tình mà nói, hiện nay một số các tổ chức tư nhân từ hải ngoại đang phải về Việt Nam lo xây dựng trường, lớp cho con em đi học, bởi vì chính quyền Cộng sản trong nước, có lẽ vì tham nhũng nhiều nên mập quá, tối ngày chỉ biết nằm mà ăn thôi, chớ không sao đứng dậy nổi mà lo cho dân nghèo (theo đúng đường lối mà Ðảng đã huênh hoang từ năm 1932), cho dù dân nghèo đó lại chính là các em nhi đồng cục cưng của "Bác Hồ kính yêu" thuở nào. Trong khi đó, một số không nhỏ các giáo viên trong nước, nhân danh nghèo đói, lại đang triển khai lề thói bắt học trò của mình phải đóng tiền để học riêng tại nhà mình (viện cớ phải kèm cặp thêm cho mau giỏi), nếu trò nào, nghèo quá, không đến học nổi thì thường bị trù dập. Vả lại, các trường học Cộng Sản không hề dạy cho trẻ em về đức dục, tức là luân lý (như kiểu "luân lý giáo khoa thư" mà các cụ lưu vong bên này vẫn ngày đêm nhớ thương, tiếc nuối) mà chỉ dạy về chính trị, về lòng hận thù (giai cấp) và về lý thuyết cộng sản, tức là một hình thức công dân giáo dục (civics) nào đó. Ngay sau "giải phóng," một giáo viên Miền Bắc thuộc loại con ông cháu cha vào dạy học ở các trường Miền Nam Việt Nam đã phải thốt lên: Ôi! Sao mà học trò trong Nam này lại lễ phép và học giỏi đến thế! Chả bù với học sinh Miền Bắc (xã hội chủ nghĩa), vừa vô lễ lại vừa dốt như bò! (26)
d. Chủ nghĩa vật chất, mãnh lực kim tiền và nếp sống thụ hưởng kiểu Mỹ (mà Cộng Sản đã hoan hỉ rước vào như một cứu tinh cho nền kinh tế thối rửa của họ) đang hoành hành dữ dội tại Việt Nam nhờ có những đợt thăm viếng (điạ đạo Củ Chi) của du khách ngoại quốc cùng với các chuyến về thăm quê hương liên tiếp và gởi tiền về Việt Nam ồ ạt của Việt kiều hải ngoại (mà số dách là Việt kiều từ Mỹ, kế đến theo thứ tự là Ca-na-đa, Anh, Pháp, Bỉ, Hoà Lan, Úc, ý, Ðức (bắt đầu hơi kẹo), Nhựt Bản (cũng hơi kẹo), Nam Hàn (kẹo hơn chút nữa), rồi mới tới các lân bang, các hải đảo Thái Bình Dương và Phi Châu). (27) Từ chỗ tranh sống, những thành phần giàu có không mấy hợp pháp nhờ thời thế hỗn mang hiện nay (như thành phần đảng viên, cán bộ cộng sản, dân đầu cơ tích trữ, mánh mung...) lại đang tranh sướng, tức là làm sao cho cuộc sống của cá nhân mình, gia đình mình và phe đảng của mình ngày một tràn đầy khoái lạc hơn, bất kể quốc gia hưng vong. Trong khi nội lực (đạo đức làm người) thì không có, mà ngoại chưởng (đô-la và nếp sống hưởng thụ) thì lại quá mạnh, hỏi làm sao dân tộc Việt Nam chống nổi để khỏi bị trầm luân, băng hoại và từ từ tiến đến chỗ diệt vong?
e. Sống gian lận, lừa đảo lâu thành quen, và thói xấu này dần dần đi vào cõi vô thức của dân tộc, hay nói cách khác là nhập tâm, tức là hội nhập vào tâm tình dân tộc. Tội nghiệp cho dân Việt Nam thuộc thế hệ hiện nay ở chỗ là họ không hề biết là mình đang ngày càng xa rời cỗi nguồn đạo đức mà mới đời ông, đời cha của họ vẫn còn có đó. Hễ vào làm việc nơi đâu thì phải lo ăn cắp thì giờ, nguyên vật liệu và cả tiền bạc (khi có cơ hội thụt két) để được no đủ, vì nhà nước hay xí nghiệp chỉ có thể cung cấp cho họ đồng lương chết đói. Là dân buôn bán, cho dù là bán thuốc Tây —trên nguyên tắc là để cứu nhân độ thế— nhưng người ta vẫn phải áp dụng mọi thủ đoạn lường gạt khách hàng mới mong giàu có. Câu chuyện ngụ ngôn về đạo đức nhan đề Cái Cân Thuỷ Ngân mà ngày xưa vẫn thấy đem giảng dạy tại các học đường để cảnh giác con người phải làm ăn và sống cho lương thiện thì ngày nay không hề được nhắc nhở đến. Ngày xưa thì chỉ có Hoa kiều Chợ Lớn chuyên làm đồ giả mạo để tranh thương, ngày nay người Việt mình dường như đã trở thành sư phụ trong những ngón nghề làm đồ giả để lường gạt đồng bào mình. (Chớ đem bán ra nước ngoài, ai mà thèm mua?)
Trong nước, vì có nạn Cộng sản, mới đành phải ra nông nỗi. Nhưng tại sao bản chất của người Việt định cư tại các nước văn minh ở hải ngoại lại cũng vẫn không khá hơn "khúc ruột quê nhà"của mình về mặt đạo đức? Xin thưa:
Một học giả người Pháp mà người viết bài này không nhớ rõ tên, khi viết về dân tộc Việt Nam, có ngỏ ý khen rằng người Việt Nam có biệt tài hấp thụ và đồng hoá những cái hay, cái đẹp của các nền văn minh thế giới do tình cờ lịch sử được mang đến Việt Nam. Thiệt ra thì ông đã quá khen. Người mình quả có tài đó, nhưng lại chỉ hấp thụ những cái dở, cái xấu của nước người để làm thành sản phẩm của mình, vì cái dở, cái xấu lúc nào cũng dễ nuốt hơn là cái hay, cái đẹp vốn đòi hỏi nhiều hy sinh, khắc kỷ mà con người nói chung khó có thể có được. (28) Ngoại trừ thế hệ trẻ của người Việt hải ngoại được sinh ra, lớn lên và được giáo dục y hệt như người bản xứ, các thế hệ phụ huynh đi trước dễ có khuynh hướng hấp thụ những cái xấu của nước người, mà trước hết là thói hưởng thụ. Khi cái chủ trương hưởng thụ nơi người Việt từng bỏ nước ra đi vì lý tưởng Tự do mà gia tăng thì phải biết rằng họ đang ngày càng xa rời lý tưởng Tự do và cội nguồn đạo đức cuả dân tộc, vì họ không còn tâm trí và thì giờ đâu mà tranh đấu cho Tự do nữa! Rồi từ đó sinh ra bệnh trục lợi (hay nhân danh một lý tưởng nào đó đặng lạc quyên mà làm giàu cho mình), tranh giành, lường gạt và khoe khoang thành tích là những tai họa đang liên tục giáng vào tình đoàn kết trong các cộng đồng người Việt hải ngoại.
Mang nặng nhiều mặc cảm cuả kẻ chiến bại khi đặt chân đến xứ người để tiếp tục cuộc sống lưu vong, những người Việt Nam từng gắn bó với Việt Nam Cộng Hoà thuở xưa, nhứt là những người có ít nhiều trách nhiệm trong Chiến Tranh Việt Nam, dễ có khuynh hướng chạy tội bằng cách đổ lỗi cho nhau, rõ nét nhất là qua hằng loạt hồi ký do các cựu tướng lãnh viết về cuộc đảo chánh Tổng Thống Diệm, về cuộc chiến đấu chống Cộng không thành sau đó, về vai trò và trách nhiệm của họ, vân vân và vân vân. Rất ít người có can đảm và đủ khẳng khái tự nhìn nhận là "tôi làm tôi mất nước," (29) trong khi đó một số nhà lãnh đạo trước đây của Miền Nam Việt Nam lại còn mơ hồ nghĩ tới chuyện Cộng sản có thể triệu vời họ về cho một giải pháp hậu hoà hợp hoà giải dân tộc nào đó! Những vị này thường lợi dụng những cuộc họp mặt với bạn bè và thuộc hạ xưa để nay thả ra một quả bóng, mai gióng lên một tiếng chuông thăm dò đặng chào mời sự ủng hộ của đồng hương, nhưng thường thì chỉ nhận được những lời phản đối, chỉ trích, châm biếm chua cay, có khi còn có tính cách xúc phạm nữa. (30) Ngược lại, một số không nhỏ khác lại trở nên tiêu cực vì không còn được hưởng những đặc quyền, đặc lợi, lên voi xuống chó như ngày xưa. Có khi, vì quá tiêu cực, họ đâm ra phân biệt kẻ chạy trước với người chạy sau, kẻ ở tù Cộng sản với người bỏ nhiệm sở chạy ra nước ngoài sớm. Ðó cũng chính là mầm mống gây chia rẽ, bất an âm ỉ khôn nguôi trong cộng đồng nguòi Việt tỵ nạn ở hải ngoại hiện nay.
Nhờ được hưởng các quyền tự do rộng rãi nơi những đất nước thiệt sự dân chủ, nhiều người Việt lưu vong đâm ra quá trớn trong những lời chỉ trích và luận tội những người không cùng ý kiến với mình mà, oái oăm thay, phần lớn lại là các chiến hữu cũ của mình. Thông qua tự do báo chí và nhờ vào chi phí in ấn khá rẻ tại hải ngoại, có tới hằng ngàn tờ báo Việt ngữ đang lưu hành trên khắp thế giới tự do. (ở đây không nói tới sách vở với hàng ngàn hồi ký, truyện ngắn, truyện dài, khảo luận, diễn từ... mà phần nhiều là được viết tuỳ hứng chớ không dựa theo một phương pháp hẳn hoi.) Ðiều đáng buồn là chỉ có một số rất ít trong các tờ báo này làm đúng thiên chức thông tin, nghị luận hay văn hoá, còn phần nhiều chỉ chuyên chửi bới nhau, có khi còn lôi cả tông chi, họ hàng đối thủ ra mà chửi. (31) Bởi vì, như người ta thường nói, xem văn, biết người, chúng ta chỉ cần xem cung cách người Việt Nam mình (dĩ nhiên là người ở hải ngoại, chớ trong nước hiện nay thì làm gì có tự do ngôn luận mà đòi cầm bút) viết lách ra làm sao thì cũng có thể thấy được không những là trình độ học vấn mà còn cả đạo đức làm người của họ nữa. Kiến thức và đạo đức vẫn là hai điều kiện không thể thiếu của một người cầm bút trong ý nghĩa là làm văn hoá, dù ở bất cứ nơi đâu và trong bất cứ thời đại nào.
f. Một số đáng kể những người Việt lưu vong, do bất đắc dĩ phải tiếp xúc lâu dài với môi trường mới đầy những luận điệu tuyên truyền xảo trá tại quê nhà trước khi ra hải ngoại, đã bị nhiễm những tánh xấu của Cộng sản hồi nào không hay. Một trong các tánh đó là óc tự hào dân tộc thái quá đến độ cuồng tín, bất chấp sự thực là khả năng của mình không có là bao nhiêu. Chẳng hạn, khi có ai nêu lên một sự thực (đau lòng) rằng trong cuộc chiến tranh vừa qua, Miền Nam Việt Nam không có tài nguyên nào đáng kể để đánh Cộng sản mà chỉ dựa vào viện trợ Mỹ cấp cho mình do nhu cầu Chiến Tranh Việt Nam mà Mỹ là kẻ chủ chốt thì lập tức thế nào cũng có một vài người giận dữ phản đối, cho nhận xét đó là không ôyêu nướcọ và sai sự thực. Họ lý luận rằng ta có nhân sự, và nhân sự đó chính là vốn quý của ta. Nghe như âm hưởng đâu đây của một bài học chính trị căn bản mà Cộng sản đã đem ra dạy cho dân chúng Miền Nam Việt Nam sau ngày giải phóng: Ðất nước ta giàu đẹp, dân tộc ta anh hùng... (32) Họ quên rằng nếu ta thiệt sự có khả năng (vật chất) thì cho dù Mỹ có bỏ rơi ta bằng cách cúp viện trợ thì cũng mặc xác họ, mắc mớ gì mà ta phải thua chạy vất vả đến như vậy? Chỉ vì quá tự hào với tiềm năng vu vơ của mình đến độ kiêu căng chưa từng thấy mà Cộng sản đã xô đẩy dân tộc Việt Nam đến chỗ nghèo hèn cùng cực như hiện nay.
g. Người ở hải ngoại, nhứt là những người đã lớn tuổi, dẫu sao khi rời bỏ đất nước ra đi cũng đã mang theo một số tánh xấu căn bản cuả dân tộc, để rồi khi sang đây cứ thế mà phát huy: chia rẻ, khích bác lẫn nhau, thích làm lãnh tụ, không lo viết lách cho ra hồn mà chỉ lo chửi bới, loè bịp bạn bè nơi xứ lạ (bằng nhà lầu, xe hơi trả góp), loè bịp người trong nước đang nghèo túng (bằng những chuyến áo gấm về làng vung tiền qua cửa sổ)... Một số, nhờ vào lệnh cấm vận kinh tế trước đây của Mỹ chống Cộng sản Việt Nam, đã dùng những chuyến du lịch về thăm quê nhà của mình để buôn bán hay chuyển tiền lậu, không ít thì nhiều cũng làm giàu cho cán bộ, viên chức Cộng sản trong nước. Có người, vì quá tha thiết với chuyện về Việt Nam, đã không dám tỏ thái độ nào với những vi phạm nhân quyền hay bách hại tôn giáo của Cộng sản trong nước, lơ là trong các sinh hoạt chống Cộng ở hải ngoại, miễn sao khỏi bị Cộng sản nằm vùng ghi sổ đen rồi trả thù khi họ lơn tơn xách gói về Việt Nam mà thôi. Lại có kẻ ráng sức bình sanh làm ra các sản phẩm văn nghệ sao cho thiệt hợp gu với Cộng sản bên nhà, với hy vọng nới rộng thị trường làm ăn, buôn bán với Cộng sản sau này, cho dù, để làm chuyện đó, họ đã phải nhẫn tâm phản bội tình chiến hữu năm xưa và chà đạp lên sự thực, trong đó có sự thực về cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua. (33)
Sự hoành hành của các thói xấu kinh niên này tưởng cũng đủ để giải thích tại sao Việt Nam ta ngày nay đang rơi vào hố sâu của sự nghèo nàn lạc hậu, chia rẻ và nghi kỵ lẫn nhau đời đời không nhạt phai, cho dù chúng ta có trốn chạy đến góc biển, chân trời nào đi nữa. Và nếu đà nầy cứ thế tiếp diễn, dân tộc Việt Nam sẽ tự mình đi vào chỗ diệt vong bên cạnh ông láng giềng Trung Hoa khổng lồ đang ngày càng bành trướng thế lực sang các lân bang nhỏ bé hơn như Hàn Quốc, Việt Nam, Lào, Căm-Bốt, Thái Lan, Miến Ðiện và Nê-pan. Khi cảnh giác mọi người về những thói hư, tật xấu này của người Việt Nam, người viết không hề có ý định bôi lọ dân tộc mình —như những thiên tài chụp mũ trong cộng đồng mình vẫn nghĩ— mà chỉ muốn gióng lên một tiếng chuông cảnh tĩnh cho tất cả những ai đang ngủ mê trong giấc mộng vàng son rằng người Việt chúng ta quá tài hoa, quá đức độ, để rồi lại uất ức, tức tưởi sao vận nước —mà Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam trước đây thường ca cẩm là "đã đến rồi" —(34) vẫn cứ còn lao đao ghê gớm, dân tộc mình vẫn còn trầm luân, khổ ải như vậy. Sự thật thì người mình cũng chẳng có tài cán là bao so với các dân tộc bạn như Trung Hoa, Ðại Hàn, Ấn Ðộ, và nhứt là Nhựt Bản. Vài ba cái thành công lẻ tẻ trên đường học vấn hay trong kinh doanh nhỏ mà mình luôn hãnh diện kia không nói lên được cái gì đáng chú ý. (35) Ðó là chưa nói tới sự kiện là hầu hết những kẻ thành công này —hiện không còn mang quốc tịch Việt Nam nữa cho dẫu khi về thăm quê hương họ có thiệt sự được Cộng sản ban cho quy chế song tịch (Việt-Mỹ đề huề)— sau cùng cũng chỉ dốc tâm phục vụ cho xứ sở mới của họ chớ không mấy khi cho đất nước Việt Nam. Chỉ có những thói hư, tật xấu có tính cách tổ tông truyền đó là còn ở mãi trong ta như là một di sản dân tộc không thể tách rời, và chính vì thế mà nó đã tác hại tới tương lai dân tộc Việt Nam rất nhiều. (36) Dám xin các bậc thức giả và quý vị có chút công tâm hãy giúp soi sáng đồng hương về những gì tốt đẹp mình đáng nên hãnh diện và những gì chẳng hay ho mình nên biết tự lấy làm xấu hổ mà sớm từ bỏ. Thiết tưởng, bên cạnh lòng tự hào về dân tộc, chúng ta cần phải nhìn ra những nhược điểm, những thói hư, tật xấu của mình. Thái độ vô tư, khách quan trong việc phê phán, đánh giá là cần thiết để nhận diện lại mình ngỏ hầu đưa đến một phản tỉnh chân thành. Bởi vì có nhìn rõ được mình và có tự biết mình chúng ta mới tự sửa đổi được để tiến lên Chân, Thiện, Mỹ. Trên thực tế, phải tu thân trước đã rồi mới mong tính tới chuyện tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. (37) Ðức Khổng Tử có nói: Người quân tử hễ biết điều lỗi thì sửa đổi nhanh như gió. Thiệt là xót xa khi toàn bộ vận mệnh đất nước Việt Nam ngày nay lại tuỳ thuộc vào ý thức về câu nói trên, tức là vào thành tâm, thiện chí sửa đổi bước đường sai trái mà, vì bệnh ngoan cố kéo dài từ hơn nửa thế kỷ qua, những người Cộng sản đã dùng bạo lực cưỡng ép dân tộc phải đi theo. Người viết bài này ước mong rằng người Việt chúng ta khắp nơi sẽ sớm tìm dịp thuận tiện để nhìn lại mình trong gương, sửa đổi bớt những điều sai trái kia, bớt tự hào xằng bậy đi, bớt kiêu căng đi, bớt nghi kỵ đi, bớt chấp nhứt đi, bớt chửi bới nhau đi, để rồi cùng nhau bắt tay tìm một lối ra hợp lý cho đất nước, ngỏ hầu đem lại hạnh phúc, ấm no cho hằng triệu đồng bào giờ đây còn "điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm." (38) Chỉ có lúc đó Việt Nam mình mới có hy vọng tiến lên theo kịp đà tiến hoá chung của nhân loại trong thiên niên kỷ tới.
Ghi chú:
Nếu quả dân tộc Việt Nam ta có đầy đủ những đức tính quí báu hơn hẳn người gấp bội như yêu nước, yêu người, anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang, cần cù chịu khó vượt bực, thông minh, tài trí, lanh lợi, kiên trì... thì sao lịch sử lại lắm tang thương và đến nay tình trạng sa đọa, phân hoá hầu như không thể nào chữa trị được? Và đối chiếu với thế giới, thực trạng đất nước càng bi đát, thua sút hẳn một đôi dân tộc mà lịch sử không lắm oai hùng như Việt Nam. Nguyễn Thuỳ & Trần Minh Xuân, Tinh Thần Việt Nam, Mekong-Tỵnạn, 1991.
(1) Nguyễn Gia Kiểng, một thành viên cuả Nhóm Thông Luận tại Paris, Pháp Quốc, trong một bài báo nhan đề Phải chăng nhân vật Nguyễn Huệ qua lịch sử đã được tôn vinh quá lố? đăng trên Ngày Nay Minnesota ngày 31 tháng Mười, 1997, đã đặt lại vấn đề công lao và thành tích của Vua Quang Trung trong lịch sử, tỏ dấu hoài nghi rằng sử sách Việt Nam, nhứt là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, đã thổi phồng quá lố uy danh và đảm lược cuả Quang Trung Ðại Ðế, một trong những vị anh hùng dân tộc vĩ đại nhứt và được tôn thờ nhứt qua bao triều đại và chế độ chính trị tại Việt Nam.
(2) Cựu Thiếu Tướng Ðỗ Mậu cuả Việt Nam Cộng Hoà, người giúp phe quân nhân lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm hồi năm 1963, viết quyển Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, một hồi ký cho hay tại sao ông phản bội vị đỡ đầu tinh thần trước đây của mình là Tổng Thống Diệm để đứng về phe đảo chánh do Tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Phe đảo chánh đã giết vị tổng thống và bào đệ của ông rồi lên cầm quyền tại Miền Nam Việt Nam. Các Tướng Trần Văn Ðôn, Nguyễn Chánh Thi và, gần đây nhứt, Tôn Thất Ðính cũng viết hồi ký về cuộc đời binh nghiệp và những đóng góp của mình vào đất nước mà các vị đó đã giúp cho bại trận.
(3) Nhiều người, sau khi từ Việt Nam trở về, đã giúp quảng cáo cho du lịch Việt Nam. Có người đã viết cả những bài báo dài khen ngợi những đổi mới tại Cộng Sản Việt Nam ngày nay, với ngụ ý rằng Việt kiều hải ngoại nên thử về thăm đất nước một phen. Tất cả những việc làm này đều nhân danh tổ quốc và dân tộc.
(4) Xin xem Việt Nam Văn Hoá Sử Cương của Ðào Duy Anh và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
(5) Ðối với người Mỹ, các công trình sau khi tốt nghiệp đại học thiệt đáng kể, vì họ không dừng lại ở mảnh bằng kiếm được mà đánh giá cao những phát minh, nghiên cứu hoặc sáng tác cuả người mang bằng cấp đó. Sinh viên các nước khác đến du học tại xứ này lấy được bằng cấp xong thường về xứ làm quan to, và coi như thoả mãn với thành tựu khoa bảng của mình.
(6) Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, trong một bài giảng nhan đề Thập Ðại Bịnh đăng trên Tập san Dấn Thân, tháng 5 & 6, 1999, gọi đó là bệnh phô trương chiến thắng. Thập Ðại Bịnh là 10 thói hư tật xấu của người Việt Nam mà theo tác giả thì nay đã biến thành những căn bệnh hầu như hết thuốc chữa.
(7) Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận gọi đó là bệnh cá nhân chủ nghĩa. (bđd).
(8) Theo Nguyễn Thuỳ & Trần Minh Xuân, Cộng Sản Việt Nam chủ trương toàn dân phải kế thừa có phát triển nền văn minh rực rỡ của Việt Nam mà tiền nhân đã để lại. Phê phán chủ trương này, tác giả viết: Chủ trương rất đẹp, nhưng họ [Cộng sản] lại tự hào chỉ có Ðảng và Nhà Nước Cộng Sản, chỉ có nền văn học, văn nghệ ôhiện thực xã hội chủ nghĩaọ mới phát triển được truyền thống dân tộc một cách trung thực và tốt đẹp, ngoài ra không một ai khác. (sđd).
(9) Cựu tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù cuả Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Tướng Lê Quang Lưỡng, trong một bài viết đăng trên Ðặc san Hoa Dù Denver, 30 tháng Tư năm 1998, đặt nghi vấn về ý đồ của vị tổng tư lệnh quân đội, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, khi ông ra lệnh xé lẻ đại đơn vị vũ bão hàng đầu này của quân lực ra từng lữ đoàn riêng rẻ trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tại Việt Nam. Trước đó, Ông Thiệu cũng đã ra lệnh buộc một đại đơn vị vũ bão hàng đầu khác, Sư Ðoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, phải cấp tốc cùng với Biệt Ðộng Quân và bộ binh rút lui khỏi Vùng I Chiến Thuật, làm cho sư đoàn này bị thiệt hại rất nặng vì phải hứng chịu toàn bộ gánh nặng của một cuộc rút quân không có chuẩn bị. Nhiều cấp chỉ huy TQLC từng vào sinh, ra tử để tái chiếm và giữ vững từng tấc đất của vùng giới tuyến khỏi tay Cộng sản trong Mùa Hè Ðỏ Lửa, 1972, đã uất ức tự sát khi bị địch bao vây và phục kích.
(10) [Ðiều cần ghi nhận là Miền Nam Việt Nam đã không sụp đổ chỉ vì những hành động có tính cách không ăn được thì đạp đổ đó của cựu Tổng Thống Thiệu, mà vì chúng ta đã bị đồng minh Mỹ bỏ rơi. Một khi Mỹ đã bỏ rơi rồi, không ai —kể cả người anh hùng ôtận trung báo quốcọ Nguyễn Khoa Nam— có thể giữ vững Miền Nam hay xoay chuyển tình thế trong giờ phút đó, vì chúng ta đã quá tuỳ thuộc vào viện trợ Mỹ. Vận nước đã đến hồi như vậy, cho nên mình cũng khó trách cứ riêng ai được.]
(11) Nhiều người vẫn nghĩ rằng Tổng Thống Thiệu đã chơi khăm Tướng Minh Lớn cho bỏ ghét, vì giữa khi cuộc chiến đang khốc liệt và tinh thần quân dân Việt Nam Cộng Hoà có lúc đang lên cao, vị cựu lãnh đạo cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm và cũng là lãnh tụ của cái gọi là thành phần thứ ba tại Miền Nam Việt Nam (mà Cộng Sản ưa thích) lại hô hào một giải pháp hoà bình, với chủ trương rằng Việt Nam Cộng Hoà nên đơn phương ngưng chiến đấu mà tiếp tục thương thuyết với Việt Cộng là phía luôn luôn áp dụng chiến thuật vừa đánh vừa đàm trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Dĩ nhiên là Tướng Minh đã quá tin vào phe Cộng Sản nên mới chịu nhận trách nhiệm lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà sau khi một trong những phòng tuyến cuối cùng của phe chính phủ là Xuân Lộc, cách Sàigòn 70 cây số về hướng Ðông Bắc, đã mất — hay nói cho đúng hơn là sau khi quân Cộng Sản, mệt quá, đã bỏ không đánh Xuân Lộc nữa mà đi vòng về phía Sàigòn.
(12) Xin xem When Hell Was In Session (Rớt Xuống Âm Ty) cuả Jeremiah A. Denton, một Ðại tá Hải Quân Mỹ từng bị Cộng Sản Bắc Việt bắt giam tại Nhà tù Hoả Lò Hà Nội sau khi phi cơ cuả ông bị bắn rơi trên vùng trời Bắc Việt trong Chiến Tranh Việt Nam. Nhà xuất bản Traditional Press, Alabama.
(13) Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận gọi đây là bệnh bè phái chia rẽ. (bđd).
(14) Thành tựu lớn nhứt về kiến trúc của Việt Nam cổ xưa là Thành Cổ Loa thời An Dương Vương Thục Phán mà nay đã bị thời gian với bao lớp sóng phế hưng và binh lửa tàn phá. Các tài liệu của Cộng Sản Việt Nam mô tả thành xây trên một khu đất cao và rộng, diện tích 92 hec-ta, nằm trên tả ngạn sông Hoàng Giang, gồm ba vòng thành theo hình xoáy trôn ốc. Chu vi vòng ngoài 8km, vòng giữa 6,8km, vòng ba là 1,6km... Bề rộng chân luỹ 20m, rộng 4m, cao 12m. Giữa hai vòng thành, nơi xa nhất 400m, giữa các vòng thành có hào sâu có thể lưu thông bằng thuyền. Mỗi luỹ có nhiều lối, nhiều ngõ thông nhau...
(15) Theo Trần Trọng Kim, người Việt Nam cũng có khi quỉ quyệt và hay bài bác nhạo chế. (sđd).
(16) Trong Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975 (Nhà xuất bản Ðại Nam, Hoa Kỳ), tác giả Nguyễn Ðức Phương, khi đề cập đến Trận An Lộc, đã không hề nhắc nhở tới vai trò của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù là một đơn vị vừa vô cùng thiện chiến vừa đầy tinh thần cảm tử của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Nếu Biệt Cách Dù không nhảy vào giải cứu An Lộc thì làm sao có được hai câu thơ bất hủ vinh danh: An Lộc địa sử ghi chiến tích; Biệt Cách Dù vị quốc vong thân? Nên nhớ là để soạn nên chương này, tác giả đã tham khảo tất cả tới 32 quyển sách, báo được liệt kê trong một thư mục dà ở cuối chương. Các hồi ký hay tường thuật của phe ta về những trận đánh lớn khác —như trận Quảng Trị chẳng hạn— cũng vấp phải lỗi lầm tương tự tuỳ theo người viết thuộc màu áo, màu mũ nào.
(17) Thiệt ra, từ lâu đã có Thuyết Việt Nho, một công trình nghiên cứu hết sức khoa học và nghiêm túc do Giáo sư Kim Ðịnh khởi xướng và thuyết minh qua 14 tác phẩm mà ông đã viết. Ðại khái, tác giả cho rằng văn minh và văn hoá Việt Nam có trước hay ít ra cũng đồng thời với văn minh và văn hoá Trung Hoa, bởi vì giòng giống Việt (Bách Việt) từ phương Bắc đã tiến vào Trung Hoa trước để lập nên các triều đại cuả Vua Phục Hi, Thần Nông và Huỳnh Ðế. Sau đó Hoa tộc (tức Hán tộc) tràn đến. Và sau trận đánh tại Trác Lộc giữa Hoàng Ðế (lãnh đạo Hoa tộc) và Si Vưu (lãnh đạo Viêm Việt tộc), Si Vưu chết nên giống Viêm Việt lùi bước dần về phương Nam để trở thành người Việt Nam ngày nay. Trong quyển Nguồn Gốc Văn Hoá Việt Nam, Giáo sư Kim Ðịnh vạch rõ rằng Việt Nho chủ trương nhân chủ, dân quyền, bình quyền, bình quyền nam nữ, quân bình tình lý hay là văn võ song hành.
(18) Sử chép rằng đời Nhà Trần, sau những trận đánh Chiêm Thành, quan quân Ðại Việt thường bắt đem về nước các cung nga, vũ nữ cuả Chiêm Thành. Các đặc sứ văn hoá này đã truyền bá nghệ thuật Chiêm Thành tại Việt Nam qua các vũ điệu cung đình mà họ trình diễn, làm say mê ngây ngất triều đình ta và làm cho ta phải lật đật bắt chước.
(19) Vào đúng lúc có Cuộc Ðấu Xảo Ba-lê, Phan Châu Trinh đã gởi cho Vua Khải Ðịnh một bức thơ dài, đại khái ông hài tội nhà vua là chỉ lo sống xa hoa, ưa xiểm nịnh và chuộng sự quỳ lạy cho rõ mình là một đấng quân vương mà không hề để ý đến phúc lợi của dân tộc Việt Nam lúc đó đang nằm dưới ách đô hộ cuả thực dân Pháp. Bức thơ có tác dụng như một gáo nước lạnh tạt vào mặt một vị hoàng đế, mà vào thời đó nếu không phải là một nhà Tây học được Hội Nhân Quyền Pháp hậu thuẫn triệt để như Phan Châu Trinh thì không một sĩ phu Việt Nam đương thời nào dám dỡn mặt.
(20) Nhiều người vẫn tin rằng dân tộc Việt Nam mình đặc biệt có khả năng xâm thực và làm hư hỏng bất cứ học thuyết đạo đức hay ý thức hệ chính trị nào được du nhập vào Việt Nam, cho dù đó là đạo lý Khổng Mạnh, học thuyết dân chủ Tây phương hay ý thức hệ Mác-xít Lê-nin-nít!
(21) Xin xem Vì sao tôi bỏ Quân Ðoàn I cuả cựu Tướng Ngô Quang Trưởng, đăng trong Tạp chí Sóng Thần 1999, Kỷ Niệm 45 Năm Thành Lập Thuỷ Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hoà.
(22) Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, nghìn năm chưa dễ đã ai quên. Thơ Thế Lữ.
(23) Hai triết gia vô thần Ðức của thế kỷ 19 là Feuerbach vả Nietzsche lần lượt rao giảng tin dữ Thượng Ðế đã chết, và mọi giá trị truyền thống của con người theo đó cũng chết luôn. Hễ đã không có Thượng Ðế thì cuộc đời chẳng hề có mục đích và ý nghĩa gì, và con người được phép làm mọi sự mà y muốn.
(24) Ai cũng phải nhìn nhận rằng, qua cuộc xung đột tại Việt Nam, Cộng Sản Việt Nam đã chứng tỏ họ thuộc loại tàn ác nhứt, nhì thế giới, với thành tích thủ tiêu thiệt lẹ đối thủ theo phương châm thà giết lầm hơn bỏ sót, pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư (chỉ vì các khu này tình cờ nằm gần các căn cứ quân sự Mỹ hay Việt Nam Cộng Hoà), bắn giết dân lành vô tội ngay trong lúc họ đang chạy trốn Thần Chiến Tranh do chính họ thả ra, tạo nên những Ðại Lộ Kinh Hoàng và Quốc Lộ Máu vang danh trong lịch sử. Nhưng vì sao Ông Trời lại để cho họ chiến thắng? Tại sao Ông Trời lại bắt những người cầm súng bảo vệ dân lành và tự do cho dân tộc như các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải thua, phải chết thảm? Nếu còn phải đợi tới "ngày phán xét cuối cùng" lúc đó Ông Tròi mới chịu ra tay trừ bạo thì ai còn biết Ông Trời ở đâu?
(25) Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu, nghĩa là Lưới Trời lồng lộng, tuy thưa nhưng không ai có thể thoát ra được. ý nói con người dù có thể thoát được luật pháp trần gian (nhờ cướp được chính quyền nên khỏi bị thế gian trừng trị) nhưng không thể thoát khỏi lưới Trời, bởi vì Thượng Ðế chí công và đầy quyền năng sẽ trừng phạt những kẻ gian ác, cho dù kẻ đó hiện đang cầm quyền sinh sát trong tay.
(26) Một giáo sư trường Cao Ðẳng Sư Phạm Sàigòn đã tâm sự như vậy với các giáo sinh của mình về tình hình trường trại và trình độ học vấn của học sinh Miền Bắc Việt Nam từng là học sinh của bà trước đây.
(27) Người Việt Nam tại quê nhà hiện nay, có lẽ vì quá thiếu thốn nhưng lại ham hưởng thụ vì cuộc đời tuyệt vọng, luôn luôn đánh giá Việt kiều hải ngoại về thăm quê hương qua cách chi tiền rộng hay hẹp của mấy người này. Thương thay cho những Việt kiều nào tiền thì không có là bao mà tình yêu quê hương đất nước thì dạt dào như biển rộng, sông dài và đại dương bát ngát, chi tiền nhỏ giọt như xê-rum phòng mổ nên mới bị người thương xỉa xói là đồ Việt kiều kẹo kéo!
(28) Nguyễn Thuỳ & Trần Minh Xuân viết về khả năng hội nhập các nền văn hoá nước ngoài của dân tộc Việt Nam như sau: "Cái cốt tuỷ, tinh hoa cuả các thứ du nhập hầu như không có đất tốt để thị hiện mà chỉ có cái phần đuôi cặn bã của những thứ đó mới tung hoành ngang dọc trên mảnh đất này [Việt Nam]. Tóm lại, chúng ta chạy theo cái đuôi cuả mọi nền văn hoá bên ngoài mà không thực sự nắm bắt được cái tinh lý ảo diệu của các luồng tư tưởng ngoại lai." (sđd).
(29) Tôi làm tôi mất nước, bút ký cuả Lê Văn Phúc. Nhà xuất bản Ðại Nam, Hoa Kỳ.
(30) Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, trong một bài nói chuyện trước các chiến hữu Không Quân của ông cách nay vài năm tại Texas, đã hô hào một cuộc hợp tác chính trị với Cộng Sản Việt Nam như là một cách thế để người Việt trong và ngoài nước cùng nhau bắt tay kiến tạo quê hương. Lời hô hào của vị cựu tướng Không Quân đã lập tức bị những người Việt chống Cộng tại khắp nơi trên thế giới phản đối kịch liệt, cho là đón gió trở cờ. Dường như thời gian gần đây cựu Tướng Kỳ đã có những tiếp xúc không chính thức với Hà Nội để mưu cầu một chỗ đứng chính trị nào đó nơi quê nhà, vì vị cựu Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hoà, người từng đem máy bay ra oanh tạc Bắc Việt hồi 1965, coi như không làm nên được chuyện gì kể từ khi qua sống lưu vong bên Mỹ. Có tin là một cựu tướng lãnh khác cuả Miền Nam Việt Nam, Nguyễn Khánh, cũng đang thực hiện những cuộc phiêu lưu chính trị tương tự. Cũng như ông Kỳ, vị cựu tướng lãnh này vẫn tin rằng một ngày nào đó Cộng Sản sẽ phải cần tới ông. Riêng cựu Tổng Thống Dương Văn Minh thì đã công bố kế hoạch về sinh sống tại Việt Nam với Cộng Sản. Vị cựu tướng bốn sao từng có công sát hại một trong những địch thủ lợi hại nhứt của Cộng sản là Tổng Thống Diệm của Miền Nam Việt Nam trong một cuộc đảo chánh hồi năm 1963, nghĩ rằng mình đã lại có công đưa Việt Nam Cộng Hoà vào chỗ đầu hàng không điều kiện quân Cộng Sản Bắc Việt hồi tháng Tư năm 1975, tiết kiệm được nhiều xương máu cho cả đôi bên trong cuộc chiến.
(31) Bà Hạnh Phước, Hoa Hậu Phu Nhơn Liệt Quốc Trong Vũ Trụ, 1995 (Mrs. All Nations Universal, 1995), Giám Ðốc Thẩm Mỹ Viện Hạnh Phước tại Houston, Texas, vì lý do cạnh tranh nghề nghiệp, đã bị một tờ báo Việt ngữ điạ phương chửi bới liên tục. Vị chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo trịnh trọng tuyên bố: "Chừng nào Bà Hạnh Phước còn thì tờ báo chúng tôi vẫn còn," ý nói tờ báo này được sinh ra với sứ mạng chửi Bà Hạnh Phước! Thiệt là: "Truyện Kiều còn thì tiếng Việt hãy còn" (Phạm Quỳnh), và "Tôi chửi bới, vậy tôi hiện hữu" (kiểu Descartes).
(32) Tất cả những trại "học tập cải tạo" tại Miền Nam Việt Nam đều có một giáo trình 10 bài học chính trị cơ bản cho sĩ quan, viên chức "ngụy" (tức chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũ), bắt đầu bằng Bài Số 1 "Ðất nước ta giàu đẹp, dân tộc ta anh hùng". Các bài còn lại là về cuộc chiến đấu chống Thực dân Pháp và Ðế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính sách "khoan hồng nhân đạo" của Chính phủ Cách mạng (Cộng sản) dành cho "nguỵ quân, nguỵ quyền"... Trên lý thuyết, "cải tạo viên" học xong 10 bài này thì coi như mãn khoá và được trả về nguyên quán. Nhưng vì 10 bài này có xào tới, nấu lui cũng chỉ lâu khoảng hai tháng cho nên không có ai được về, mà tất cả đều phải ở lại tiếp tục "cải tạo lao động" cho đến khi "thật sự tiến bộ". "Cải tạo lao động" tức là đi lao động khổ sai tại đồng ruộng hay núi rừng. Muốn được coi là thật sự tiến bộ, cải tạo viên phải ở lại trại tập trung từ ba đến năm hay mười năm hay lâu hơn nữa, thường là tuỳ ở sức nặng của món "nợ máu" đối với nhân dân (tức là Cộng sản) mà "cải tạo viên" đã vay trong cuộc chiến.
(33) Xin xem Paris By Night 40, chủ đề Mẹ, cuả Nhà Thuý Nga Paris. Giám đốc sản xuất là Tô Văn Lai; biên tập & giới thiệu chương trình là Nguyễn Ngọc Ngạn.
(34) Ðoạn cuối bản quốc thiều nước Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam [Cộng Sản Nam Việt Nam] trước ngày bị chính đàn anh Cộng Sản Bắc Việt yêu dấu của họ thủ tiêu: Vận nước đã đến rồi, nguyện hy sinh đến cùng. Dựng xây non nước sáng tươi muôn đời... Giải Phóng Miền Nam Hành Khúc.
(35) Nguyễn Thuỳ & Trần Minh Xuân: Chúng ta có thể có một đôi cá nhân thông minh, xuất sắc, nhưng để tạo nên một cái tiếng chứ trên thực tế không có một đóng góp nào đáng giá. (sđd).
(36) Nguyễn Thuỳ & Trần Minh Xuân: "Kể không hết những thói hư tật xấu của người Việt Nam. Ðến nay, những thói xấu đó càng trở nên lộ liễu khiến cả thế giới phát sợ." (sđd). Trên thực tế, tại hải ngoại đang có hiện tượng chối phăng nguồn gốc Việt Nam khi nào có thể được, điễn hình là một số người trong giới ca sĩ chuộng sĩ diện. Ca sĩ hát tiếng Việt Nam gì mà hễ được hỏi tới nguồn gốc thì cứ khai mình là người Tàu! Vì sao được sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, nói tiếng Việt Nam từ thuở mới lọt lòng mẹ, và nhờ có người Việt Nam đổ máu ra trong chiến tranh mới được quốc tế cho đi tỵ nạn mà lại không dám nhận mình là người Việt Nam? Té ra là vì sợ. Mà điều gì làm cho mấy người này phải sợ? Hỏi tức là trả lời.
(37) Khổng Tử: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nghĩa là: Trước hết phải tu dưỡng tánh tình để trở thành người có đạo đức. Sau đó mới tính tới chuyện quản lý gia đình. Kế đó mới đem tài năng ra mà trị nước. Và sau cùng, khi đất nước đã thịnh vượng, ta mới tính đến chuyên mang lại an lạc, thanh bình cho tất cả mọi người trên thế gìan.
(38) Lời nhạc trong Chuyến Ðò Vĩ Tuyến của Lam Phương.
Xem tiêp bài 2
Bài II
Nếu Nguyễn Hồi Thủ, người dịch "Người Trung Quốc Xãu Xí" của Ba Dương đã gióng trước, "Có thể giữ được lòng bình an nếu đừng đọc cuốn sách nầy"... Quả thật là như vậy, vì chỉ đọc bài giới thiệu của Phan Thanh Tâm thôi, chúng ta đã lậm phải ngay điều xa xót với câu hỏi cay đắng: Chẳng lẽ người Việt cũng "xấu" đến độ đáng sợ như thế sao? Câu trả lời không thể khả quan hơn vì như Saroyan Vann đã tường trình quá đầy đủ và quá hữu lý (ở phần I), mà chúng ta dẫu đào cái hố sâu bao nhiêu, tiếng vọng của lời tố giác "Vua Midi mọc tai lừa!!" cũng không thể lấp liếm được. Vâng, người Việt Nam đã trở nên thậm tệ dị dạng, và biến tướng đến độ thảm thương - Ðã đến lúc chúng ta phải chập nhận sự thật, dẫu khắc nghiệt đến bao nhiêu.
Có thể tạm bỏ qua một bên sự kiện tranh chấp quyền lực chính trị bằng biện pháp quân sự giữa hai phe Quốc-Cộng, mà lần khởi sự và buổi kết thúc (ắt phải có giữa hai phe lâm chiến) đã diễn ra cách đây hơn nửa kỷ, quá 25 năm. Nói như thế không phải để 'chạy tội", đánh tráo trách nhiệm cho tập đoàn người cộng sản ở Hà Nội về tình trạng sa đọa của Việt Nam hiện tại. Nhưng, bởi chúng ta cần trung trực, khách quan hơn để nhìn vấn đề từ nguồn cội, mà tác động đích thực, quyết định trực tiếp đến vận mệnh, tương lai đất nước, hầu định hình, định tính lại diện mạo, bản sắc người Việt Nam. Chúng ta nói về diễn tiến nguy hại, hậu quả lâu dài khi - nền giáo dục nhân bản và dân tộc mà người Việt tối cần thiết dần bị hũy hoại và tiêu diệt.- Ðầu mối tội của người cộng sản là nơi đây.
Chẳng đợi đến năm 1883, 1884, hai Hòa Ước Quý Mùi và Giáp Tuất hợp thức hóa chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam, giới sĩ phu mới có phản ứng không chịu khuất phục, nhưng ngay sau khi quân Pháp đánh chiếm Ðà Nẵng, 1858; thành Chí Hoà, ba tỉnh Miền Tây Nam Bộ, 1861, từ Nam ra Bắc, Trương Ðịnh, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Thuyết, Phan Ðình Phùng, Cao Thắng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật... đã thống lãnh quân binh, phối hợp với những vị vua minh duệ Duy Tân, Hàm Nghi liên lũy chống Tây xâm, giúp vua, cứu dân, giữ nước. Trí thức quan lại cũng không thiếu trí tuệ viễn kiến hoặc dũng khí bản lãnh để thúc dục triều đình cải cách, hoặc cùng đành tiết tháo hy sinh, tỏ lòng tận trung báo quốc, trường hợp của Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu. Và đỉnh cao trung dũng Kẻ Sĩ Việt Nam được đánh dấu bởi cái chết bi tráng của mười ba Liệt Sĩ Quốc Dân Ðảng nơi pháp trường Yên Báy, 17 tháng 6, 1930. Thế nhưng, năm mươi năm sau, hơn nửa thế kỷ được thụ lãnh "học thuật" Tây phương, nơi phương tây hàng đầu của tổ chức và kỹ thuật cao, phía Tây- Âu với Mỹ, Pháp, phía Ðông-Âu với Nga, Ðức - cuối cùng, tiếng than xé cật đã vang lên vô vọng - Kẻ sĩ nay ở phương nào? Kẻ sĩ nào thấy đâu?! Tình trạng bi thảm nầy hẳn phải có một đâu mối. Ðầu mối tiên khởi và độc nhất: Người Việt ở thế kỷ qua đã hẳn thiếu một nền QUỐC HọC. Và đảng cộng sản ở Hà Nội là thủ phạm hàng đầu của "sự nghiệp tai họa"- thay thế nền quốc học khẩn thiết nầy bằng một kế sách mạo danh xã hội, mót nhặt từ những tay sát nhân siêu đẳng. Chúng ta hãy xem thuật "dạy người" của cán bộ cọng sản đệ tam quốc tế.
Do quá khốn đốn, quẩn bách trong cuộc sống, nên con người số đông luôn cần phép lạ và ân huệ mà thực tại trần thế lại không thể nào đáp ứng được, nếu không muốn nói còn tạo nên nguy biến trầm trọng hơn. Thế nên, các tôn giáo đã được các bậc đại trí, từ nhân khai sáng và mãi tồn tại cùng nỗi khổ con người. Chúng ta có thể nói chắc như thế mà không sợ sai lầm. Nhưng người cộng sản lại ngang ngược phủ nhận nhu cầu sinh tử nầy, họ khinh miệt đánh giá tôn giáo như là một hình thái tồi tệ tinh thần, loại "thuốc phiện của nhân dân", và quyết tâm trị liệu cơn say thuốc nầy bằng biện pháp bạo lực. Sau khi thanh toán "ông trời" - không đáng một chữ viết hoa, và cưỡng ép người dân vào ngỏ cụt lịch sử lầy lội đẫm máu (phần I), người cộng sản (cộng sản Á Châu vốn là kẻ theo học xuất sắc, cộng sản Việt Nam lại là "đỉnh cao trí tuệ siêu việt" của quá trình thụ huấn khốc hại nầy) tra vào tay nhân dân một "ân huệ" độc địa nhưng cũng thích hợp vớI tính ác tự thân của người - quyền giết người - được biện hộ vì mục đích, yêu cầu của chủ nghĩa và chế độ. Và giới gọi là "kẻ sĩ" thêm một lần được "vận động cách mạng":
Từ, Ðường vinh quang xây xác quân thù... Tiến Quân Ca của Văn Cao", đến
Giết! Giết! Giết!...
Bàn tay không phút nghỉ
Ðể ruộng đồng thêm tốt
Lúa thêm xanh - Chế Lan Viên
Trong hơn năm mươi năm, cán bộ cộng sản đã cưỡng ép, thực tập buộc người dân nhiễm thói quen - một bản năng thứ hai - sống cùng cảnh giới của sự ác và hóa thân nên tính ác. Quá trình tàn nhẫn nầy không loại trừ đến cả tình thương, trái tim người mẹ - tất cả đồng bị "chính trị hóa":
Bầm thương con nên bầm yêu đồng chí
Bầm quý con nên bầm mến anh em - Tố Hữu
Hoặc giây phút linh thiêng của cuộc tồn sinh - khi người sản phụ lâm bồn - được so sánh, đánh giá như động tác bắn giết một loại quân thù tàn tệ
Tao đánh mầy hân hoan như sinh đẻ
Và linh thiêng như xây dựng kỳ đài - Chế Lan Viên
Ðể cuối cùng hoàn tất nên "con người xã hội chủ nghĩa" với nỗi ngu muội mê thiếp theo hình ảnh của một "lãnh tụ tôn giáo mới",
Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
Thương mình thương một, thương ông thương mười!! - Tố Hữu
"ÔNG" chính là "Stalin, tên giết người" ghê tởm nhất của lịch sử nhân loại với thành tích 20 triệu người Nga và những dân tộc thống thuộc đế quốc sô-viết, chết dưới tay y trong 29 năm cầm quyền. Hoặc, một mẫu mực khác gần gũi, quen thuộc hơn, Mao Trạch Ðông với "tính sáng tạo vô sản", dùng xe hốt rác để dọn xác người, chỉ một thành phố Nam Kinh sau một lần Hồng Vệ Binh xuống đường biễu dương lực lượng năm 1965. Trước những đỉnh cao thắng lợi nầy, ba ngàn người Huế bị chôn sống trong Tết Mậu Thân, 1968, hoặc 800 bộ đội miền Bắc của sư đoàn 308 bị tan xác bởi một pass B52 nơi mặt trận Khe Sanh cuối năm 1967, (do thực hiện âm mưu thí quân, đánh lạc hướng Tướng Westmoreland, để đoạt thắng lợi trong lần tấn công đầu năm 1968) không hề làm Võ Nguyên Giáp chạnh lòng, nên ba mươi năm sau, khi nhắc lại với người Mỹ, y vẫn hân hoan giương giương tự đắc về một "chiến thắng Khe Sanh, Mậu Thân 1968".
Vâng, khi giết người đã là một "sự nghiệp", máu người là "chất men vinh quang", xác chết của đồng bào mình là món hàng phải trả giá bằng những tờ giấy bạc mới được phép đem chôn (Xác người chết vượt biên trôi vào bãi biển Vũng Tàu nhân ngày giỗ Nguyên Hồng, Thơ Trần Mạnh Hảo) - chữ "xấu xí" có còn đủ nghĩa để gọi đến "người Việt Nam" nữa hay không. Tuy nhiên, trong khi đó, vẫn còn một số người không nhỏ - Lẽ tất nhiên cũng là"người Việt Nam ta" tung hô, ngợi ca và cố công bắt chước những kẻ "xấu xí cách mạng vô sản tiên tiến" kia.
Và về phía cộng hòa, trách nhiệm dạy người được trao gởi vào tay những viên cai, đội mà cùng đích "võ nghiệp" không gì hơn là một vài mẫu kim loại hình ngôi sao được đeo lên cổ áo, để có "uy tín" chiếm giữ nhiệm vụ "đặc trách văn hóa", nên thành "thần tượng tuổi trẻ" với kỹ thuật cao giải tử vi, chọn gà chọi và đánh bài mạt chược. Bài viết của Phan Thanh Tâm sau đây e rằng không đủ vào đâu.
Vạch Áo Cho Mọi Người Cùng Xem
PHAN THANH TÂM
Tốt khoe ra, xấu xa đậy lại và nhất định không có chuyện vạch áo cho người xem lưng. Ðó là phương châm của phe ta. Tại sao vậy? Tự cho là thuộc dòng giống con rồng cháu tiên, và có quá khứ hơn bốn ngàn năm văn hiến nên người mình lúc nào cũng tốt, cũng bãnh, cũng anh hùng, xuất chúng. Hễ nói tới người ngoại quốc thì xách mé, trịch thượng; gọi họ bằng thằng, bằng con. Và nước VN phải là minh châu trời đông, là bó đuốc soi đường. Tuy nhiên gần đây, có dư luận lên tiếng là phải xét lại cái ý tưởng tự tôn, tự đại, ngông cuồng đó. Họ cho rằng cứ hót ca và, nâng bi dân tộc mình một cách lộ liễu như vậy hoài thì ta sẽ mãi mãi ngất ngư như con gà mắc dây thun. Chắc hẳn phải có vấn đề, có trục trặc đâu đó vì tài khôn như vậy mà chưa ra cái con gì cả trong khi các nước lân bang ở Ðông-Nam Á nay đã là con cọp, con beo, con sư từ rồi.
Cái hay ở chỗ, người tạo ra dư luận là một nhà thơ hồi nhỏ ở Saigon, du học ở Nhật năm 1966, định cư ở Pháp năm 1969, trong khi sang Tàu, vớ đựơc một cuốn sách khiến ông 'thích thú quá cỡ" và ông nghĩ rằng "bất cứ người VN nào khác đọc được, bảo đảm cũng sẽ thích thú" như ông. Ông tin rằng quyển sách sẽ "giúp nhìn lại mà đánh giá bản thân, dân tộc và văn hóa của mình trong giai đoạn hiện nay". Vì thiện ý, ông bỏ công ra dịch và mong có nhiều người đọc. Nhà xuất bàn Chân Mây Cuối Trời phát hành bản dịch lấn đầu tiên tại Paris năm 1998. Cuốn sách được đón tiếp nồng hậu. Giới báo chí đua nhau nói về nó. Nhà xuất bản Văn Nghệ ở quận Cam, thủ đô của người tị nạn, hưởng ứng in lại và quyển sách được coi là bán chạy trong năm 1999.
Nhà báo Lê Ðình Ðiểu, trước khi qua đời, trong khi nằm trên giường bệnh, viết bài điểm sách đăng trên Thế Kỷ 21 số tháng 4/99: "Ðọc Người Trung Quốc Xấu Xí của Bá Dương, người VN nào cũng liên tưởng đến việc đây là chuyện của mình. Có lẽ chỉ thay cái tựa là Người Việt Nam Xãu Xí cuốn sách cũng vẫn có ý nghĩa. Phải chăng đó là lý do nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ bỏ thì giờ, công sức ra dịch cuốn sách sang Việt ngữ?" Trả lời câu hỏi của nhà phê bình văn học Ðặng Tiến, đăng trong Việt Mercury, dịch giả, tên thật là Nguyễn Khôi Minh, sinh năm 1945 tại Hà Bắc nói, sự đời là thuốc đắng đả tật. Có chướng tai cũng phải nói. Ông tâm sự, "không đọc quyển sách này có khi đở phải nghĩ ngơị lôi thôi; còn chẳng may đọc có thể sẽ bị đau khổ nhiều hơn là thích thú".
Trong bàì phỏng vấn hồi tháng 10/99 này, khi đề cập về những cuốn sách như Người Việt Ðáng Yêu, Người Việt Cao Qúi, dịch giả, đã có bảy tập thơ xuất bản ở ngoại quốc từ năm 1968, cho biết, "Ðó là chuyện ngược đời. Ở những nước tiên tiến giàu mạnh, chưa có nước nào bốc thơm dân tộc mình một cách lố bịch như thế cả. Người Mỹ, người Nhật, người Pháp, người Ðại Hàn đều chỉ có những sách nói lên khuyết điểm, những cái tồi dở của dân tộc, đất nước mình. Bây giờ đến lượt người Trung Quốc. Cuốn Người Trung Quốc Xấu Xí xuất bản ban đầu ở Ðài Loan; sau đó được tái bản ở lục địa. Họ đã biết nghĩ, tuy là môt nước lớn, văn hóa lâu đời, nhưng nếu cứ mãi ra rã về những cái vĩ đại thì theo nhá báo Bá Dương, tác giả cuốn sách, Trung Hoa sẽ đi đến chỗ diệt vong mà thôi".
Nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ, trong phần lời người dịch viết, ngay sau khi từ Trung Quốc về đến VN, ông đã đưa bản sao cho một người bạn ở Hà Nội và động viên người này dịch ra tiếng Việt. Nước Trung Hoa Cọng Sản đã chấp nhận cuốn sách. Người Âu Mỹ cũng thế, thì không có lý do gì người VN lại không thể được đọc nó, cho dù không phải để học hỏi, mà có thể vì hiếu kỳ, thông tin về một nước láng giềng. Hơn năm năm, ông đã hy vọng là cuốn sách sẽ xuất hiện tại VN; nhưng cho đến nay, người trong nước vẫn chưa được đọc. Theo dịch giả, cuốn sách sẽ rất có ích cho tất cả các cộng đồng có liên quan it nhiều đến văn hóa Trung Quốc. Chủ đích của tác giả Bá Dương là nếu muốn phục hưng dân tộc, phải bắt đầu bằng việc thừa nhận các khuyết điểm, sai trái của mình.
Ðọc người rồi ngẫm đến ta
Tác giả Bá Dương, là nhà báo, nhà văn, nhà thơ và là sử gia, sinh năm 1920, chạy sang Ðài Loan năm 1949, ở tù 10 năm vì các bài viết bị xem là phạm thượng. Ra tù ông đi diễn thuyết về hiện tượng Người Trung Quốc Xấu Xí. Cuốn sách gồm những bài nói chuyện của ông và của những người tranh luận với ông. Có người cho rằng nếu không đọc được sách của Ba Dương là một sự thiệt thòi lớn. Sách hấp dẫn, hơn chuyện chưởng của Kim Dung, vì nó khiến thiên hạ phải: đọc người rồi ngẫm đến ta. Thấy sao nó giống dữ vậy cà. Giống dễ sợ. Theo ông, văn hóa Trung Hoa đã biến thành một đầm nước chết, càng lâu càng thối, thành một vại tương rồi. Ðặc tính rõ nhất của người Trung Quốc là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Có nhiều nơi, nếu người Trung Quốc đến ở là những người khác dọn đi.
Bất kỳ ở chân trời góc biển nào hễ có người Trung Quốc là có cắn xé nhau. Mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ổ dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi. Người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được. Mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đòan kết. Bất cư xã hội người Hoa nào it nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Họ chưa biết tầm quan trọng của sự hợp tác; nhưng họ có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đòan kết, hay ho đến Thượng Ðế cũng có thể khóc được. Những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: chết cũng không chịu nhận lỗi. Họ thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa. Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hay tranh quyền đoạt lơi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định.
Người Trung Quốc sống tại Mỹ cũng vậy, nào cánh tả, cánh hữu, trung lập, độc lập, thiên tả, trung, trung thiên hữu, hưũ thiên trung vân vân và vân vân, chẳng biết đường nào mà mò.Người này đối vớI kẻ nọ đều mang mối cựu thù như nó giết bố mình. Thật không hiểu là thứ dân tộc gì? Ðối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính là người Trung Quốc với nhau. Bán rẻ, hăm dọa người Trung Quốc lại không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Người Tây Phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết. Sống trường kỳ trong cái hũ tương lâu ngày quá tự nhiên sinh ra tâm lý cẩu thả. Một mặt tự đại khoe khoang, còn mặt khác tự ti, ích kỷ; không có can đảm dám khen người khác, chỉ có dũng khí dùng để đả kích kẻ khác; chửi bới sau lưng; yêu thì sợ chúng cười, ghét thì sợ chúng thù. Họ vĩnh viễn không thể nào so sánh được với ngươi Do Thái, chỉ cần so sánh với người Nhật, ngươi Ðại Hàn là cũng thấy bị thua tới cả trăm nghìn năm ánh sáng rồi.
Người Trung Quốc sợ sệt đủ moị thứ trên đờì. Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa, bạo quan không bao giờ bị tiêu diệt, và đã biến dân tộcTrung Quốc thành một dân tộc hèn mọn. Sức tưởng tượng, óc suy xét, tư duy củu giới trí thức bị bóp chết, xơ cứng. Trong 4000 năm, từ Khổng Tử trở đi, không còn có một nhà tư tưởng nào lớn nữa. Cái hũ tương văn hóa, cái hũ tương thối làm cho người Trung Quốc xấu xí, không thể dùng tư duy của mình giải quyết, phải bắt chước, phải dùng cái tư duy của kẻ khác; lớn lên trong tham ô, hỗn loạn, chiến tranh, giết chóc,bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác an toàn, lúc nào cũng hoảng hốt, lo âu.Trung Quốc diện tích rộng thế, lâu đời thế mà người Trung Quốc lại có một tâm điạ thật hẹp hòi, không muốn ai hơn mình. Phải chăng Thượng Ðế đã phú cho chúng ta có một nội tâm xấu xa?
Trên đây là những đọan trích các ý tưởng tản mạn trong sách của nhà báo Bá Dương. Ai cũng biết, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Hơn một ngàn năm đô hộ, lại sống sát nách một kẻ như thế, chẳng lẽ ta gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn? Họ sao ta vậy hay ta tệ hơn thì chẳng có gì lạ cả. Lại nữa, mỗi dân tộc có mỗi bệnh trạng xã hội. Bệnh trạng của ta cọng thêm bệnh trạng của anh bạn láng giềng thì chắc phải hết thuốc chữa; hèn gì nước ta lúc nào cũng loay hoay như gà mắc đẻ, lệt bệt đì sau thiên hạ. Nếu văn hóa Trung Hoa đã biến thành một cái hũ tương thối thì văn hóa ta là cái hũ gì? Hũ vàng hay là hũ mắm thối? Còn Người VN ra sao? Thử nhìn thoáng vào gương xem.
Mẫu người Việt Nam
Trong cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim có đoạn tả tính tình người VN trước năm 1930 như sau: Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người VN có cả các tính tốt và các tính xấu. Ðại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm năm đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy cũng có hay tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác chế nhạo. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình nhưng mà đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỹ luật. Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang, và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma, tin quỉ, sùng sự lễ bái nhưng mà vẫn không nhiệt tin tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn. Ðàn bà thì hay làm lụng và hay đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ moi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quí là tiết, nghĩa, cần, kiệm.
Với mẫu người nói trên và nếu cho rằng, văn hóa là sinh hoạt, ta không hiểu văn hóa ta là văn hóa gì, lại có thể sản sinh một tay gian hùng nhưng rất thành công như Trần Thủ Ðộ. Việt Nam Sử Lược của học gỉả Trần Trọng Kim cho biết, vì cốt gây dựng cơ nghiệp cho nhà Trần, dù tàn bạo đến đâu Trần Thủ Ðộ cũng làm cho được. Ông đã chôn sống cả giòng họ Lý. Trước đó, Trần Thủ Ðộ nói với vua Lý Huệ Tông, tuy đã bỏ ngôi vua, xuất gia đi tu, môt câu để đời "nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái". Trong khi đó, Nguyễn Trãi, đại công thần của vua Lê Lợi, thảo ra Bình Ngô Ðại Cáo, môt bản văn chương giá trị, và là tác gỉả câu đầy tình người "Thương người như thể thương thân", trong tập Gia Huấn Ca, thì lại bị giết cả họ vì bị kết tội là dùng người thiếp đẹp và giỏi thơ, Nguyễn Thị Lộ, để mưu hại nhà vua.
Cụ Hoàng Văn Chí, trong cuốn từ Thực Dân đến Cọng Sản cho biết, vào những năm 1954 và 1956, khi Cọng Sản Việt Nam đem chiến thuật "Cải Cách Ruộng Ðất" của Mao Trạch Ðông, áp dụng tại Bắc Việt, mới thấy người mình sao lại có đầu óc nô lệ dữ vậy. Ðúng như cụ Trần Trọng Kim phê bình: "từ tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở". Mà theo Bá Dương, Trung Quốc hiện tại còn là một nước dã man nguyên thủy, thì việc Cọng Sản Việt Nam đưa ra phương châm: "thà giết mười người vô tội còn hơn để thoát một kẻ thù" trong khi phát động chiến dịch long trời lỡ đất nói trên cũng là điều hiển nhiên thôi. Ở các nước văn minh thì khác. Nguyên tắc luật pháp của họ là: thà tha lầm hơn bắt lầm.
Mặc khác, trên sân khấu chính trị nước ta có một "diễn viên kỳ tài", chữ của nhà văn Vũ Thư Hiên khi nói về Hồ Chí Minh, một người làm cách mạng chuyên nghiệp, được huấn luyện tại Nga, tên thật là Nguyễn Sinh Cung. Ông tiến, ông thoái, khi hai bước, khi ba bước, khi khóc, khi cười, biến ảo khôn lường. Cả thế giới đêu nghe danh ông. Cho đến nay chưa ai biết rõ ỏcon đường bác điõ. Theo giáo sư Nga Anatoli Sokolov, chuyên viên Liên Sô về Việt Nam Học, tại Trung Tâm Nghiên Cứu Ðông Phương ở Mạc Tư Khoa, trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, ông có trên 150 bí danh. Ðể cho "chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới'' ông sẵn sàng mua chiến thắng đó "dẫu phải đốt sạch cả dãy Trường Sơn" hay phải "đánh Mỹ đến người VN cuối cùng". Không hiểu khí thiêng sông núi VN thế nào mà lại có thể hun đúc một con người kỳ bí như vậy? Ông đã gây ra bao cuộc bể dâu, chết chóc.
Hồi thập niên 60, có bài Tâm Ca Số Năm của Phạm Duy mang tên Ðể Lại Cho Em nói lên thực tế của đất nước: "bây giờ chỉ còn là một mảnh đất bị chia cắt, cày xới lên bởi bom đạn. Hận thù nhân danh chủ nghĩa, bạo lực vênh vang bề thế"; và "Ðường về tương lai nghẽn lối". Thế hệ đàn anh chỉ đề lại "những giả dối, đê hèn, và vụng dại". Bài hát lưu hành ở miền Nam rồi rơi vào quên lãng, bị át bởi tiếng xe tăng, máy bay, hỏa tiển, AK, M16. Vũ khí này được cung cấp bởi các nước đồng minh của hai miền Nam Bắc. Ðó là hệ quả của việc tìm đường cứu nước của bậc tiền bối. Kè đi Tàu, đi Nga, ngưòi đi Tây, đi Nhật, đi Mỹ. Ai cũng cho là thuốc mình mang về là thuốc tiên; nhưng vì muốn độc quyền trị nước nên VN thành chỗ thử lửa của cuộc chiến tranh lạnh.
Trong ba mươi năm nội chiến từng ngày, nửa nước từ con sông Bến Hải trở ra bắc theo Nga, theo Tàu; nửa bên này chống lại bằng dựa vào Tây, vào Mỹ. Cuối cùng miền Nam sụm vì hết điểm tựa. Hoa Kỳ rút lời cam kết, ngưng viện trợ. Chỉ nội hai tháng Ba và Tư năm 1975, cả một chế độ tan tành. Khôn sống, mống chết. Tướng tá cao chạy xa bay, tìm đường thoát thân. Trong lúc trời đất nổi cơn gió bụi mới thấy nhân tài, khôn lanh thì nhiều như lá mùa thu, còn tuấn kiệt thì như sao mai buổi sớm. Có bao nhiêu người đứng lại chịu chết, chịu tù, chịu nhục, chịu chia xẽ với thuộc cấp? Anh hùng tất phải hiếm. Ðiều đó dễ hiểu. Nhưng đâu rồi câu hát "Dân ta hằng anh dũng, dân ta vẫn oai hùng, dân ta dù nguy biến không nao"?
Ngày 30/4/1975 là ngày phơi bày rõ ràng bộ mặt của cấp lãnh đạo hai miền: miền Nam hèn kém, miền Bắc xảo trá, đê tiện, đầu óc nô lệ Sau khi chiếm Sàigòn, người Cọng Sản tìm cách tiêu diệt các thành phần tinh nhuệ bằng học tập cải tạo và vơ vét tài sản của miền Nam một cách có hệ thống bằng hai chữ quản lý. Họ lại đốt sách baó và cấm lưu trữ các sản phẩm văn hóa cũ như thời Tần Thủy Hoàng. Họ cố xoá bỏ căn cước của dân miền Nam. Dân miền naỳ không thấy được giải phóng mà thấy mình là dân bị trị, bị người anh em làm nhục, trả thù vì thế mới có chuyện người Việt dù chết vẫn tìm cách lao đầu ra biển, làm mồi cho hải tặc, cho sóng dữ. Ðến ngay "cả cái cột đèn nếu biết đi cũng còn muốn bỏ nước ra đi"? Dân tộc VN, có quá khứ dài lâu; anh em như thể chân tay, sao lại không thể sống chung với nhau, mà lại đi ra xứ người sống với thiên hạ?
Con Rồng Cháu Tiên?
Sau thế chiến thứ hai, chỉ trong vòng 20 năm, hai nước chiến bại, Ðức và Nhật đã phục hưng nhanh chóng, trở thành cường quốc kinh tế. Ông Bá Dương đã ví họ, "chẳng khác nào, một anh khổng lồ ba đầu sáu tay, đùng một cái bị đánh gục xuống đất, một lúc sau từ từ hồi tỉnh, đứng dậy phủi quần aó bước đi, vẫn đường đường là một hảo hán". Còn nước ta, Việt Nam là một nước nghèo. Ðời sống nói chung so với các nước ở Ðông Nam Á hãy còn thấp. Tuy theo tin báo, hiện đã có 39.000 thuê bao Internet nhưng nhà nước lại tăng cường tốc độ các bức tường lửa để kiểm soát các ngươì vào lưới. Người dân chưa được tự do xử dụng máy in, một phát minh từ thế kỷ 15 của ông Johann Gutenberg. Mọi ấn phẩm đều phải có giấy phép của chính quyền. Ở thời đại tin học mà còn phải làm báo chui, báo lậu như tờ Thao Thức của một số sinh viên thì phải kể là chuyện hiếm hoi trên thế giới.
Tháng 5/1999, nhà văn Dương Thu Hương, từ trong nước đã gửi lén ra hải ngoại một đoản văn. Theo cô: sau chiến tranh ngót một phần tư thế kỷ, trên dãi đất này vẫn chỉ nghe rõ tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen trên các nghĩa địa nối dài từ bắc vào nam, từ nam ra bắc. và Chiến tranh không làm cho các công dân chín chắn hơn, khôn ngoan hơn, xử dụng quyền công dân mạnh bạo hơn mà ngược lại nó khiến đám đông hèn nhát hơn, dễ thỏa hiệp hơn với sự nhục nhã, dễ cúi đầu hơn trước tội ác. Tại sao vậy? Ông Nguyễn Gia Kiểng, thuộc nhóm Thông Luận trong bài Vết Thương 30/4/1999 cho rằng: Ðó là vì dân tộc ta đã rã hàng, mỗi người tự thấy mình cô đơn, có muốn cũng chẳng làm được gì. Ðó cũng là vì đã quá chán đất nước, đã mệt mõi, đã mất ý chí và lòng tự hào. Ðảng Cọng Sản không phải chỉ đánh gục phe quốc gia hay miền Nam. Họ đã đánh gục được cả dân tộc VN. Chúng ta đã bị đả thương quá đau nên không thể đứng dậy.
Còn hải ngoại, được coi như là một VNCH nối dài thì thế nào?. Tờ báo Hợp Lưu số 49 viết: "có nước nào trên thế giới chỉ bé tí bằng lỗ chân lông như Bolsa tiểu quốc, thế mà cái gì cũng thặng dư lạm phát. Báo chí thì rợp trời kín đất như lá mùa thu. Văn bút thì chúng tôi có đến nhị vị chủ tịch (dù bây giờ chả còn ai trên thế giới công nhận, nhưng mặc xác thế giới, chúng tôi cứ là văn bút, cứ là chủ tịch, làm gì nhau?), cộng đồng cũng đương kim hai ngài tổng thống (dù thật thà mà nói, trông mặt các ngài, con nít sẽ khóc thét như gặp ma, người lớn sẽ nôn nao ruột gan muốn ói), và chính phủ lưu vong cùng đảng phái yêu nước, nói không phải khoe, trung bình mỗi tháng mọc thêm chừng mươi cái, nhanh, nhiều như nấm dại mùa đông". Sang đây, mất tất cả, thiên hạ mơ có quyền lực. Ông nào cũng tự cho mình có sứ mệnh, như "ai bao năm từng lê gót nơi quê người" của thuở nào. Vàng thau lẫn lộn, không biết đâu là thật, đâu là giả.
Năm 1958 hai tác giả William J.Lederer và Eugene Burdick cho phát hành cuốn The Ugly American (Người Mỹ Xãu Xí), nói về thói hư, vụng về, ngu dốt, tham nhũng, dốc tướng, của các chính khách Mỹ. Cuốn sách gây xôn xao trong chính trường Hoa Kỳ, bán rất chạy. Hơn sáu triệu ấn bản được bán ra. Tổng Thống Mỹ Eisenhower phải cho thành lập một ủy ban gồm chín nhân vật có uy tín để duyệt xét lại các chương trình viện trợ quân sự. Thựơng viện Hoa Kỳ cùng lập một nhóm nghiên cưú cuốn sách và gửi cho mỗi Nghị sĩ mỗi người một cuốn. Ông Bá Dương viết, họ có năng lực sưả sai, tự điều chỉnh mình. Thay ví lấy tay che đít, họ nói toáng lên cho mọi người biết "tôi có bệnh trĩ đây". Họ có được cái trí tuệ và dũng cảm, tìm cách sửa đổi và giải quyết
một cách thỏa đáng những lỗi lầm.
Nước Việt Nam cứ lẫn quẫn trong vòng chậm tiến, cũng hoang mang lúng túng chẳng kém các cụ nhà Nho cách đây một thế kỷ là vì ta không biết mình biết ta. Ta cần có một cuốn Người Việt Xãu Xí để "nôn ra được tất cả những thứ dơ bẩn trong ruột", rồi tìm ăn những thứ có chất dinh dưỡng tốt, giúp ta có thể tự phản tỉnh. Bỏ chuyện tự kiêu hảo, giấy rách giữ lấy lề hay đói cho sạch rách cho thơm, thẳng thắng nói lên những tệ hại của dân tộc mình, để cùng nhau cải tiến. Trước thềm năm mới cũng là trước thềm thế kỷ và thiên niên kỷ mới, nhân loại đang tiến nhanh tiến mạnh trong cuộc cách mạng thông tin, chúng ta phải lẹ lẹ lên. Chậm thì chết. Trong khi chờ đợi có cuốn sách như vậy, chúng ta hãy hè nhau vạch áo cho mọi người cùng xem, nếu không, thay vì Con Rồng Cháu Tiên lại trở thành con khùng cháu điên mất. Phải không quí vị?
Quá hay, quá đúng, và quá buồn.
ReplyDeleteTôi mong muốn và thỉnh nguyện nhà văn Phan Nhật Nam nếu có phương tiện và thì giờ xin viết dùm người Việt chúng ta quyển "Người Việt Xấu Xí". Tôi hy vọng với lòng tự trọng của dân tộc Việt trong mỗi chúng ta ít nhiều cũng sẽ tự thay đổi và hướng thiện hơn.
ReplyDeleteDân tộc nào cũng có những tính tốt và tính xấu. Việt Nam cũng thế. Nếu chỉ có toàn tính xấu thì dân tộc ấy ắt bị tiêu diệt. Dân Việt cũng có nhiều tính tốt, và các dân tộc khác cũng có nhiều tính xấu. Điều khác biệt giữa VN và các dân tộc khác là tính xấu của dân tộc ta có " tỷ trọng " nặng nề hơn so với tính xấu. Chúng ta có quá nhiều tật xấu. Chúng ta cần phải tự biết mình và suy ngẫm về sự bại vong của dân tộc mình. Không phải ngẫu nhiên mà dân tộc ta điêu linh thống khổ như ngày nay. Tính nết của một con người tạo nên số mạng người đó. Văn hóa, tính nết, tập quán của một dân tộc quyết định vận mạng của dân tộc đó. Điều đáng lo là sự sửa đổi một " văn hóa " xấu, một tập quán tệ hại thường không dễ dàng và mất rất nhiều thời gian, có khi là mất luôn một vài thế hệ. Dù sao, nhận diện được tính xấu của mình là bước đầu tiên. Cảm ơn nhà văn Phan Nhật Nam đã viết ra những điều chúng ta cần suy ngẫm và sửa đổi cấp thời.
ReplyDeleteVa(n phong co' ve? cu?a ngu+o+`i Mie^`n Nam nu+o+'c Vie^.t qua', dda^y co' pha?i la` chi'nh ba?n do Phan Nha^.t Nam vie^'t hay kho^ng hay la` dda~ ddu+o+.c hie^.u ddi'nh dde^? kho?i gio^'ng lo^'i ha`nh va(n cu?a ngu+o+`i mie^`n Ba('c nu+o+'c Vie^.t (???)
ReplyDeleteNe^'u ta'c gia? la` Phan Nhu+.t Nam thi` to^i kho^ng co' y' kie^'n (!!!)